Sử 12 Chuyên đề: lịch sử Việt Nam 1939-1945

Huỳnh Thị Bích Tuyền

Cựu Mod Sử
Thành viên
10 Tháng tám 2021
1,501
1
1,435
231
19
Cà Mau
Trường THPT Thới Bình
[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Phong trào giải phóng dân tộc 1939 – 1945.
1. Tình hình Việt Nam trong những năm 1939 – 1945.
- Tháng 9/1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ và ngày càng lan rộng ở Châu Âu, quân đội phát xít Đức tiến vào nước Pháp. Chính phủ Pháp đầu hàng và làm tay sai cho Pháp ở Đông Dương, thực dân Pháp đàn áp phong trào cách mạng, đồng thời chúng thi hành chính sách "Kinh tế chỉ huy”, tăng thuế để tăng cường vơ vét sức người sức của nêm vào chiến tranh
-Tháng 9/1940. Nhật tiến vào miền Bắc Việt Nam. Pháp đã nhanh chóng đầu hàng và cấu kết với Nhật để cùng thống trị, vơ vét bóc lột nhân dân ta -Dưới hai tầng áp bức, bóc lột của Pháp – Nhật, các tầng lớp nhân dân ta bị đẩy đến tình trạng cực khổ, điêu đứng, “Một cổ chịu hai trong". Mâu thuẫn của dân tộc ta với đế quốc phát xít Pháp - Nhật phát triển gay gắt, vận mệnh dân tộc nguy vong không lúc nào bằng, nhiệm vụ giải phóng dân tộc đặt ra vô cùng cấp thiết. Nhiều cuộc đấu tranh chống Pháp-Nhật của nhân dân ta đã nổ ra, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ và Binh Biến Đô Lương.
- Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào cái đoạn kết thúc, phát xít Đức và Nhật liên tiếp thất bại. Ở Đông Dương, ngày 9/3/1945. Nhật đảo chính Pháp nhiều đảng phái chính trị ở Việt Nam tăng cường hoạt động quần chúng nhân dân sục sôi khí thế cách mạng và sẵn sàng vùng lên khởi nghĩa
2. Những cuộc đấu tranh mở đầu thời kỳ mới
- Khởi nghĩa Bắc Sơn (27/9/1940).
- Khởi nghĩa Nam Kỳ ( 23/11/1940 )
- Binh biến Đô Lương(13 /1/1941)
2. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng Đảng cộng Sản Đông Dương ( 11/1939 )
- Tháng 11/1939, Ban chấp hành Trung ương Đảng họp tại Bà Điểm ( Hóc Môn - Gia Định).
* Nội dung
- Xác định nhiệm vụ, mục tiêu đấu tranh trước mất của cách mạng Đông Dương đánh đổ đế quốc và tay sai, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập
+ Tạm gác khẩu hiệu "cách mạng ruộng đất" và đề ra khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của bọn thực dân đế quốc và địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc, chống tô cao, lãi nặng Khẩu hiệu thành lập chính quyền Xô viết công nô được thay thế hàng khẩu hiệu thành lập Chính phủ cộng hoà dân chủ.
-Phương pháp đấu tranh: Chuyển từ hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp sang hoạt
động bí mật và bất hợp pháp
+ Chủ trương thành lập Mặt trận Thống nhất dân tộc phân để Đông Dương để tập rrung mọi lực lượng của dân tộc vào nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng
* ý nghĩa:
- Hội nghị TW Đảng tháng 11/1939 thể hiện sự nhạy bén về chính trị và năng lực sáng tạo của Đảng trước sự chuyển biến của tình hình thế giới và trong nước
- Hội nghị đánh dấu bước chuyển hướng quan trọng, đã giải quyết đến mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, đưa nhân dân ta bước vào thời kỳ đấu tranh trực tiếp giải phóng dân tộc.
4. Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đảng Dương (5/1941) và việc thành lập Mặt trận Việt Minh.
a. Hoàn cảnh lịch sử

* Thế giới: Chiến tranh thế giới thứ hai ngày càng lan rộng và quyết liệt tác động mạnh đến tình hình trong nước.
+ Trong nước:
-Tháng 9/1940, quân Nhật tiến vào Đông Dương. Pháp đã nhanh chóng đầu hành và cấu kết với Nhật để cùng thống trị, vơ vét bóc lột nhân dân ta.
- Dưới hai tầng áp bức của Pháp – Nhật, các tầng lớp nhân dân ta bị đẩy đến tình trạng, cực khổ, điêu đứng. Mâu thuẫn giữa các dân tộc Đông Dương với đế quốc phát xít Pháp – Nhật phát triển gay gắt, vận mệnh dân tộc nguy vong không lúc nào bằng, nhiệm vụ giải phóng dân tộc được đặt ra vô cùng cấp thiết.
- Yêu cầu phải giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước ở Đông Dương, ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia chung tay đoàn kết chống kẻ thù chung nhưng ở mỗi nước có đặc điểm riêng.
- Tháng 1-1941 lãnh tụ guyễn Ái Quốc về nước và triệu tập Hội nghị trung ương Đảng lần thứ 8 ( 5/1941)
b. Nội dung
- Hội nghị khẳng định nhiệm vụ chủ yếu trước mất của cách mạng là giải phóng dân tộc
- Tiếp tục tạm gác khẩu hiệu ruộng, nên khẩu hiệu giảm tô, giảm tức thực hiện người cày có ruộng. Hội nghị chỉ rõ- sau khi đánh đuổi Đế Quốc Pháp Nhật sẽ thành lập chính phủ nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
- Hội nghị chủ trưởng phải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước ở Đông Dương, ở Việt Nam. Hội nghị quyết định thành lập Việt Nam độc lập đồng minh ( gọi tắt là mặt trận Việt Minh ) nhằm đoàn kết tất cả các giai cấp, tầng lớp đấu tranh chống Pháp Nhật và giúp đỡ việc thành lập một trận ở Lào, Campuchia.
- Xác định hình thái của cuộc khởi nghĩa ở quốc ta là đi từ khởi nghĩa từng phần
tiến lên tổng khởi nghĩa và nhấn mạnh; chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm cần toàn Đảng, toàn dân.
C. Ý nghĩa
- Hoàn chỉnh chủ trương đã đề ra từ Hội nghị Trung ương tháng 11/1939; tiếp tục giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất
- Đề ra nhiều chủ trường sáng tạo nhằm giải quyết mục tiêu số một của cách mạng là độc lập dân tộc; thành lập Mặt trận Việt Minh để tập hợp mọi lực lượng yêu nước, xác định hình thức của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền, chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm
- Khắc phục hạn chế của Luận cương chính trị (10/1930) và khẳng định chủ chương đúng đắn trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, góp phần trực tiếp đưa đến thắng lợi Cách mạng tháng Tám năm 1945.
5. Chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa thành chính quyền
- Từ sau Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (5-1941), toàn Đảng, toàn dân tích cực xây dựng lực lượng cách mạng để chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền
+ Xây dựng lực lượng chính trị
- Một trong những nhiệm vụ cấp bách của Đảng là vận động quần chúng tham gia mặt trận Việt Minh. Cao Bằng là nơi thí điểm xây dựng các hội cứu quốc trong mặt trận Việt Minh. Đến năm 1942, khắp 9 châu của Cao Bằng đều có hội cứu quốc, uỷ ban Việt Minh từ Cao Bằng và liên tỉnh Cao-Bắc- Lạng được thành lập ở nhiều tỉnh Bắc Kỳ và một số tỉnh Trung Kỳ, các hội Cứu quốc được thành lập
- Năm 1913, Đảng đã đưa ra bản " Đề cương văn hóa Việt Nam ". Năm 1944, Hội Văn hóa Cứu quốc và Đảng Dân chủ được thành lập, đứng trong mặt trận Việt Minh.
- Đảng cũng tăng cường công tác vận động binh lính người Việt trong quân đội Pháp, những ngoại kiều ở Đông Dương chống phát xít
- Từ sau Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng (2/1943), ở hầu khắp các vùng nông thôn và thành thị Bắc Kỳ, các đoàn thể Việt Minh, nội cứu quốc được
dựng và củng cố. Ở nhiều tỉnh Trung kỳ và Nam phong trào Việt Minh phát mạnh -out cao trào kháng Nhật cứu nước, lực lượng chính trị tiếp tục phát triển, tạo nên một lực lượng hùng hậu ở khắp thành thị và nông thôn
+ Xây dựng lực lượng vũ trang:
-Cùng với việc xây dựng lực lượng chính trị, công tác xây dựng lực lượng vũ trang
cách mạng được Đảng đặc biệt coi trọng. Sau khi cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn thất bại, mỗi bộ phận lực lượng vũ trang khởi nghĩa chuyển sang xây dựng thành những đội du kích. Đến tháng 2/1941, những đội du kích này thống nhất thành Trung đội Cứu quốc quân.
- Cứu quốc quân phát động chiến tranh du kích 8 tháng, sau đó phân tán thành
nhiều bộ phận để chấn chỉnh lực lượng và gây dựng cơ sở chính trị trong quân chúng.
- Tháng 9/1941, thành lập trung đội Cứu quốc quân II. Cuối năm 1941. Nguyễn Ái Quốc quyết định thành lập đội tự vệ vũ trang để chuẩn bị cho việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
- Tháng 2/1944, thành lập Trung đội Cứu quốc quân III. Ở căn cứ Cao Bằng
những đội tự vệ vũ trang, đội du kích được thành lập.
- Theo sự chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 22/12/1944 đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân được thành lập. Hai ngày sau, đội đã hạ đòn Phay Khắt- Nà Ngần, làm cho quần chúng phấn khởi và quân địch hoang mang lo sợ.
- Tháng 4/1945, Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ quyết định thống nhất các
lực lượng vũ trang, phát triển hơn nữa lực lượng vũ trang và nửa vũ trang.
- Tháng 5/1945, Cứu quốc quân và Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân thông nhất thành Việt Nam giải phóng quân. Như vậy, bên cạnh lực lượng chính trị hùng hậu được tập họp trong Mặt trận Việt Minh, lực lượng vũ trang cũng đã ra đời và trưởng thành nhanh chóng. làm chỗ dựa cho cách mạng
+ Xây dựng căn cứ địa:
- Sau khởi nghĩa Bắc Sơn, căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai được xây dựng. Năm 1941 Nguyễn Ái Quốc xây dựng căn cứ địa Cao Bằng. Đó là hai căn cứ địa đầu tiên của cách mạng nước ta
- Tháng 6/1945, khu giải phóng Việt Bắc được thành lập. Đây là căn cứ địa cách mạng cả nước và là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam mới.
 
Top Bottom