Cảnh Ngày Xuân

T

tiendat_no.1

tham khảo đây nhé !

2. Cảnh mùa xuân hiện ra trong 4 câu thơ đầu là cảnh sắc được nhìn và miêu tả từ cái nhìn thời gian và không gian:
a. 2 câu thơ đầu:
- Là cái nhìn thời gian về khung cảnh mùa xuân đó là cái nhìn thấm đẫm tâm trạng của người trong cuộc.
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
.”

- Câu thơ “con én đưa thoi ” có thể hiểu theo 2 cách:
+ Những cánh chim én có thực rộn ràng bay lượn giưã bầu trời mùa xuân trong sáng.
+ Cánh én đưa thoi là biểu tượng của bước đi thời gian: thời gian mùa xuân đang trôi qua rất nhanh.

Khung cảnh mùa xuân ở đây đã được nhìn từ cái nhìn tâm trạng của chị em Thúy Kiều đó là cái nhìn tươi trẻ.
- Ở câu thơ thứ hai, từ “đã ngoài ” ẩn chứa thái độ để làm rõ hơn cái nhìn của chị em Kiều về bước đi thời gian của mùa xuân và đó là một cái nhìn nuối tiếc.

Ở đây do sự tiết chế về ngôn từ, do tư cách của người chuyện, do quy tắc của việc biểu hiện cái tôi trong văn học trung đại, Nguyễn Du đã không thể để cho nhân vật của mình kêu lên đầy nuối tiếc, đầy táo bạo và mãnh liệt như xuân Diệu- nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới, sống sau Nguyễn Du một thế kỉ - dù là tâm trạng mới bước đi của mùa xuân là giống nhau ở 2 thi sĩ :
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân
(Vội vàng)
Nên: “Nhanh lên chứ, vội vàng lên với chứ
Em em ơi tình non đã già rồi
(Giục giã)
b. Hai câu thơ tiếp theo là bức tranh xuân được tả cận cảnh với cái nhìn không gian dẫn đến đây là 2 câu thơ “tuyệt bút ” của Nguyễn Du khi miêu tả.
+ Chỉ với 2 câu mà mùa xuân hiện ra như một bức tranh có màu sắc tuyệt diệu, hài hoà. Thảm cỏ xanh làm nền cho bức tranh xuân, trên cái nền ấy điểm một vài bông hoa lê trắng. Màu xanh và sắc trắng tôn vinh lẫn nhau tạo ra một bức tranh xuân sống động, mới mẻ, tinh khiết và tràn đầy sức sống.
+ Chỉ bằng một nét vẽ cảnh mùa xuân dường như được nhuộm trong một màu xanh mềm mại và non tơ dẫn đến cách dùng từ của Nguyễn Du đã khéo léo tài tình tạo nên màu xanh ấy: “Cỏ non xanh tận chân trời ” . Trong câu thơ này từ “non ”vừa bổ nghĩa cho từ cỏ đứng trước lại vừa bổ nghĩa cho từ xanh ở sau dẫn đến gợi nên một màu xanh non tơ và óng ả. Không chỉ thế 3 từ “tận chân trời” lại khiến cho màu xanh ấy kết thành hình khối, mở rộng không gian, đó là một không gian xuân bạt ngàn màu xanh (ngập tràn màu xanh) đúng hơn là một biển cỏ xanh mênh mông, bát ngát và dào dạt sức sống xanh non tơ.
+ Trên cái nền xanh gợi cảm ấy tác giả điểm xuyết sắc trắng của một vài bông hoa trên cành lê “Cành lê trắng điểm một vài bông hoa ”.

Suy ra chọn cỏ và hoa lê để miêu tả sắc xuân đã có từ rất lâu trong thơ ca cổ của Trung Quốc:
Cỏ thơm liền với trời xanh
Trên cành lê có mấy bông hoa
Và có thể biết 2 câu thơ tuyệt bút Nguyễn Du đã mượn ý thơ từ 2 câu thơ cổ nói trên. Bằng tài hoa của mình, Nguyễn Du đã thổi vào đó ngọn gió vô hình của tâm tình để tạo ra sự sống riêng biệt cho 2 câu thơ tuyệt bút của mình. Đó là ở câu thơ thứ 2, ông thêm một từ “trắng” , ông lại còn đảo ngược cách dùng từ thông dụng: “điểm trắng” suy ra “trắng điểm” . Chỉ một chút thay đổi đó thôi tưởng là đơn giản vậy mà ngoài Nguyễn Du khó có ai có thể làm được bởi vì nếu viết “điểm trắng ” thì ý thơ và âm điệu của thơ không thay đổi nhưng đó chỉ là cách vẽ tranh của một nghệ nhân bắt chước mà không có hồn . Còn Nguyễn Du viết “trắng điểm” thì lại tạo ra yếu tố bất ngờ nghĩa là “trắng điểm” tức là điểm xuyết vào đó một chút sắc trắng của mình để chăm chút tô điểm cho sắc xuân bằng bàn tay vô hình của tạo hoá một cách ý nhị và tinh tế. Chính vì thế thêm một chút, thay đổi một chút vậy mà hương của cành lê tưởng chừng như không còn là chính nó. Cách dùng từ khác biệt đã giúp Nguyễn Du tạo ra hai thế giới khác biệt và như thế Nguyễn Du đã tô đậm hợp cảnh mùa xuân sinh động, gợi cảm, non tơ, mềm mại và hài hoà màu sắc.
c. 8 câu thơ tiếp nối là khung cảnh lễ hội:
- Lễ tảo mộ: đi sửa sang, quét dọn mộ người thân.
- Hội đạp thanh: hội chơi mùa xuân ở làng quê.
Suy ra ở 8 câu thơ này Nguyễn Du thiên về miêu tả cảnh hội hơn là lễ. Đặc biệt ông nhấn mạnh không khí náo nức, rộn ràng của lễ hội.
Vì:

+ Sự nô nức và đẹp đẽ, rộn ràng của lễ hôi tương hợp với vẻ đẹp trong sáng và tràn đầy sức sống của mùa xuân ở 4 câu thơ đầu.
+ Cảnh ngày xuân được cảm nhận và miêu tả từ cái nhìn của hai chị em Kiều tạo nên sự trẻ trung trong tâm hồn của hai chị em cũng như tương hợp với ko khí nô nức, rộn ràng của ngày xuân hơn là lễ hội.
- Ở đây Nguyễn Du còn làm sống lại những nét văn hóa xưa qua nghệ thuật miêu tả đám đông. Lễ chỉ là cái cớ còn cái đích thực cuối cùng ở đây là hội. Bởi vậy “tro tiền giấy bay”, “thoi vàng vó rắc” chỉ qua chỉ là nghi thức, tất cả Nguyễn Du dành cho sự náo nhiệt của giai nhân, tài tử của xe ngựa, của áo quần là lượt. Trong không khí đó không rõ gương mặt ai nhưng ai cũng thấy mình ở trong đó.
- Những từ láy dùngg trong phép đối hài hoà tạo ra ấn tượng không thể quên về lễ hội nô nức rộn ràng. Đồng thời Nguyễn Du cũng qua đó để miêu tả tâm trạng nô nức, háo hức của chị em Kiều.
d. 6 câu thơ cuối: Tả cảnh chị em Kiều đi chơi xuân trở về: Đây là lúc hội đã tàn, ngày chuyển về chiều nghĩa là cảnh xuân đang dc mt đúgn theo bước đi của thời gian.
- Ở 6 câu thơ này Nguyễn Du đã dùng một loạt từ láy mang nghĩa giảm nhẹ:
+ Giảm nhẹ về động tác và về chuyển động : tà tà, thơ thẩn, nao nao.
+ Giảm nhẹ về sự sắc nét của bức tranh phong cảnh làm cho phong cảnh trở nên mơ hồ và thấp thoáng hơn: thanh thanh, nho nhỏ.

Các từ láy này tạo ra sự tương phản với cảnh lễ hội tấp nập, nhộn nhịp ở trước đó. Đồng thời sự tương phản này cũng khắc hoạ tinh tế bước đi của thời gian.
- Nhưng bên cạnh đó là các từ láy với nghĩa giảm nhẹ lại còn mang nghĩa bóng. Nghĩa là chúng không chỉ miêu tả cảnh sắc thiên nhiên theo bước đi của thời gian mà còn nhuộm màu tâm trạng, đó là tâm trạng “thơ thẩn “ của chị em Kiều lúc này, tất cả đều lắng xuống, chơi vơi trong một trạng thái mơ hồ nhưng có thực. Nó là nỗi bâng khuâng, man mác nuối tiếc trong một nỗi buồn không goi tên được. Cách dùng từ như thế này biểu hiện tài hoa và khéo léo của Nguyễn Du khi lấy đà để chuyển ý của câu chuyện sang một cảnh mới với một tâm trạng mới của nhân vật. Cảnh chị em Kiều sẽ gặp nấm mồ Đạm Tiên.
- So sánh cảnh mùa xuân trong 6 câu đầu với 6 câu cuối trong đoạn trích: Có sự khác biệt:

+ 6 câu đầu: Bức tranh thiên nhiên mùa xuân đẹp đẽ khoáng đạt tinh khôi thanh khiết mới mẻ và đầy sức sống + 6 câu cuối: Cảnh chiều tà không còn ồn ào náo nhiệt mà cảnh cứ nhạt dần, lặng dần, tâm trạng buồn lưu luyến bâng khuâng khi trở về.
Thời gian khác thì không gian cũng khác. Nếu cảnh trong bốn câu đầu là cảnh buổi sáng lúc lễ hội mới bắt đầu thì ở đây là cảnh chiều tan hội. Tâm trạng mọi người theo đó cũng khác hẳn. Ngày vui nào rồi cũng qua, cuộc vui nào rồi cũng tàn... Bởi lẽ "Sự vật chảy trôi không ngoái đầu nhìn lại...Sự vật chảy trôi không quyền nào ngăn cản nỗi." ( R. Tagore)
4. Tóm lại cảnh xuân và tâm trạng của con người trong đoạn trích có mối tương quan lẫn nhau.
- Cảnh xuân trong trẻo đầy sức sống tương hợp với nô nức, trẻ trung của những giai nhân, tài tử đi lễ hội mùa xuân
- Sự thay đổi của cảnh vật cũng khiến cho hành động, tâm trạng của con người thay đổi.

Đó chính là nét đặc sắc của thiên tài Nguyễn Du, sự tương hợp đó đã tạo nên vẻ đẹp hài hoà giữa cảnh và người. Tất cả tạo nên một bức tranh trong trẻo, đầy sức sống: Bức tranh mùa xuân.
=> - Đoạn thơ có kết cấu hợp lí, vừa gợi, vừa tả đã làm cảnh vật thiên nhiên được nổi rõ.
- Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của nhà thơ.
- Cái tài và lòng yêu thiên nhiên của Nguyễn Du.


tham khảo đây nhé !
___________________________________
_____________ :)
 
T

thutrang1102

-"Cảnh ngày xuân" là kết tinh nét đặc sắc trong bút pháp nghệ thuật của Nguyễn Du:
+ngôn ngữ đạt đến trình độ bậc thầy vs những từ ngữ giàu màu sắc hội họa,giàu khả năng tạo hình
+ngòi bút tả cảnh có sự kết hợp giữa tả cụ thể chi tiết và gợi vs tính chất điểm xuyết chấm phá
+bút pháp tả cảnh ngụ tình giúp thể hiện những trạng thai cảm xúc,mơ hồ tinh tế của con người
-miêu tả bức tranh xuân đẹp và gợi cảm không chỉ cần đến 1 tài năng mà quan trọng hơn nó còn là cái tình vs quê hương,đất nước,cảnh trí ngày xuân cho thấy tấm lòng thiết tha vs cảnh trí non sông cảu Nguyễn Du không cần gợi mở trong mỗi người niềm yêu tha thiết đất nước của chính mình
 
T

tayhd20022001

tham khảo đây nhé !
___________________________________
_____________ :)

Phân tích đoạn trích "Cảnh ngày xuân":
Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc Việt Nam. Tên tuổi của nhà thơ không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn vang xa trên thi đàn thế giới. Sở dĩ tác giả đạt được niềm vinh quang đó là vì ông đã có một sự nghiệp sáng tác giá trị, trong đó xuất sắc nhất là Truyện Kiều - tác phẩm lớn nhất của nền văn học Việt Nam. Cảm hứng nhân đạo và vẻ đẹp ngôn từ của truyện thơ này đã chinh phục trái tim bao thế hệ bạn đọc trong gần hai trăm năm qua. Đọc đoạn trích "Cảnh ngày xuân", chúng ta càng cảm phục bút pháp miêu tả cảnh vật giàu chất tạo hình và man mác xúc cảm của tác giả:
Ngày xuân con én đưa thoi,
.........
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Bên cạnh nghệ thuật tả người, nghệ thật tả cảnh là một thành công đặc biệt của "Truyện Kiều". Bút pháp ước lệ tuy nghiêng về sự gợi tả, kích thích trí tưởng tượng của người đọc nhưng vẫn giú ta hình dung rất rõ về bức tranh thiên nhiên mùa xuân tười đẹp và tâm trạng của người du xuân trong giây phút trở về. Đoạn thơ có kết cấu theo trình tự thời gian của một cuộc du xuân. Bốn dòng thơ đầu là khung cảnh mùa xuân. Tám dòng thơ tiếp theo là cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh. Và sáu dòng thơ cuối là cảnh và nỗi lòng của chị em Thúy Kiều lúc bóng chiều buông xuống.
Mở đầu, Nguyễn Du đã phác họa một bức tranh mùa xuân thật ấn tượng. Không gian, thời gian hiện ra trong hai dòng thơ khơi gợi trí tưởng tượng của người đọc:
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Khung cảnh thiên nhiên mang vẻ đẹp riêng của mùa xuân. Giữa bầu trời cao rộng, từng đàn chim én rộn ràng bay lượn như chiếc thoi trên khung dệt vải. Hình ảnh "con én đưa thoi" gợi bước đi của mùa xuân tương tự cách nói trong dân gian "Thời giờ thấm thoắt thoi đưa / Hết mưa lại nắng, hết ngày lại đêm". Xung quanh tràn ngập "ánh thiều quang" - ánh sáng tươi đẹp - đang rọi chiếu lên toàn cảnh vật. Ánh nắng mùa xuân có nét riêng, không nóng bức như mùa hè cũng không dịu buồn như mùa thu mà trái lại, tạo một cảm giác tươi vui, trẻ trung, mới mẻ trong sự nồng ấm của những ngay đầu năm. Thời gian đầu năm trôi qua thạt nhanh làm sao! Cho nên cả hai câu thơ vừa miêu tả cảnh thiên nhiên tươi sáng đồng thời thể hiện niềm tiêc nuối trước sự trôi nhanh của thời gian. Thoắt một cái đã cuối xuân rồi, cái đẹp của mùa mở đầu một năm sắp hết.
Chỉ bằng một câu thơ lục bát, bức họa xuân hiện ra đẹp đến không ngờ:
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Cách viết của Nguyễn Du khiến ta không phân biệt được đâu là thơ, đâu là họa nữa. Thảm cỏ xanh non trải ra mênh mang đến "tận chân trời" là gam màu nền cho bức tranh xuân. Trên nền xanh mượt mà ấy được điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng. Đây chính là cái hồn, cái thần, là nét vẽ trung tâm của bức tranh. Tiếp thu từ câu thơ cổ trung Quốc: "Phương thảo liên thiên bích / Lê chi sổ điểm hoa" (Cỏ thơm liền với trời xanh / Trên cành lê có mấy bông hoa), Nguyễn Du đã vận dụng sáng tạo khi thêm màu trắng vào câu thơ. Cả một không gian xuân hiện lên khoáng đạt, trong trẻo vô cùng. Màu sắc có sự hài hòa đến mức tuyệt diệu. Chỉ hai màu thôi mà có thể gợi nên vẻ mới mẻ, tinh khôi, tươi sáng, trẻ trung đầy thanh khiết đến như vậy. Tính từ "trắng" kết hợp với động từ "điểm" đã thể hiện được cái đẹp, cái sống động của câu thơ lẫn bức tranh xuân, gợi hình ảnh lay động của hoa làm cho cảnh vật trở nên sinh động, có hồn chứ không tĩnh lại. Những đường nét mềm mại, thanh nhẹ, sắc màu không sặc sỡ mà hài hòa, không tả nhiều mà vẫn gợi được vẻ đẹp riêng của mùa xuân. Phải là người sống chan hòa với thiên nhiên, cỏ cây và nhất là có tâm hồn rung động tinh tế, thi nhân mới có thể viết được những câu thơ nhẹ nhàng mà đầy biểu cảm tuyệt vời đến thế. Dường như Nguyễn Du đã thay mặt tạo hóa dùng ngòi bút để chấm phá bức tranh nghệ thuật cho riêng mình. Nhà thơ Hàn Mặc Tử trong bài "Mùa xuân chín" cũng đã ít nhiều ảnh hưởng Nguyễn Du khi vẽ cảnh mùa xuân:
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời,
Bao cô thiếu nữ hát trên đồi.
Đoạn thơ có sự chuyển tiếp nhịp nhàng, tự nhiên. Từ khung cảnh mùa xuân tươi mới, êm đềm ấy, nét bút của Nguyễn Du bắt đầu tập trung khắc họa những hoạt động của con người. Họ là những người đi tảo mộ, đi chơi xuân ở miền quê kiểng. Và trong lễ hội dập dìu đó có những nhân vật của Nguyễn Du - chị em Thúy Kiều - đang thong thả chơi xuân:
Thanh minh trong tiết tráng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.
Tiết Thanh minh vào đầu tháng ba, khí trời mát mẻ, trong trẻo. Người người đi viếng, quét dọn, sửa sang và lễ bái, khấn nguyện trước phần mộ tổ tiên. Sau "lễ tảo mộ" là đến "hội đạp thanh", khách du xuân giẫm lên cỏ xanh - một hình ảnh quen thuộc trong các cuộc chơi xuân đầy vui thú ở chốn làng quê. Cách sử dụng điệp từ "lễ là", "hội là" gợi ấn tượng về sự diễn ra liên tiếp của các lễ hội dân gian, niềm vui tiếp nối niềm vui.
Không khí lễ hội rộn ràng, huyên náo bỗng hiện ra thật sinh động trong từng dòng thơ giàu hình ảnh và nhạc điệu:
Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngừa xe như nước áo quần như nêm.
Tài năng của Nguyễn Du được thể hiện qua cahs sử dụng ngôn từ. Sự xuất hiện của hàng loạt các từ ngữ hai âm tiết bao gồm danh từ, động từ, tính từ như: gần xa, yến anh, chị em, tài tử, giai nhân, nô nức, sắm sửa, dập dìu,... đã gợi lên bầu không khí rộn ràng của lễ hội đồng thời làm rõ hơn tâm trạng của người đi trẩy hội. Hầu hết các câu thơ đều được ngắt nhịp đôi (2/2) cũng góp phần gợi tả không khí nhộn nhịp, đông vui của lễ hội. Cách nói ẩn dụ "nô nức yến anh" gợi hình ảnh từng đoàn người náo nức du xuân như chim én, chim oanh bay ríu rít. Câu thơ "Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân", Nguyễn Du không chỉ nói lên một lờithoong báo mà còn giúp người đọc cảm nhận được những trông mong, chờ đợi của chị em Kiều. Trong lễ hội mùa xuân, nhộn nhịp nhát là những am thanh nữ tú, trai thanh gái lịch vai sánh vai, chận nối chân nhịp bước. Họ chính là linh hồn của ngày hội. Cặp tiểu đối "tài tử"/"giai nhân", "ngựa xe như nước"/"áo quần như nêm" đã khắc họa rõ nét sự hăm hở của tuổi trẻ. Họ đến với hội xuân bằng tất cả niềm vui sống của tuổi xuân. Trong đám tài tử giai nhân ấy có ba chị em Thúy Kiều. Có lẽ, Nguyễn Du đã miêu tả cảnh lễ hội bằng đôi mắt và tâm trạng của hai cô gái "đến tuổi cập kê" trước cánh cửa cuộc đời rộng mở nên cái náo nức, dập diu từ đó mà ra. Toàn bộ dòng người đông vui, tưng bừng đó tấp nập ngựa xe như dòng nước cuốn, áo quần đẹp đẽ, thướt tha đống đúc "như nêm" trên các nẻo đường. Thật là một lễ hội tưng bừng, sang trọng và phong lưu.
Cái hay, cái khéo của Nguyễn Du còn được thể hiện ở chỗ chỉ bằng vài nét phác thảo, nhà thơ đã làm sống lại những nét đẹp văn hóa ngàn đời của người Phương Đông nói chung và dân tộc Việt Nam nói riêng. Lễ tảo mộ, hội đạp thanh không chỉ là biểu hiện đẹp của lòng biết ơn tổ tiên, của tình yêu con người trước cảnh sắc quê hương, đất nước mà còn gợi lên một vẻ đẹp của đời sống tâm linh với phong tục dân gian cổ truyền:
ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.
Người đã khuất và người đang sống, quá khứ và hiện tại như được kéo gần lại. Ta nhận ra một niềm cảm thông sâu sắc mà Nguyễn Du đã gởi vào những dòng thơ: có thể hôm nay, sau hơn hai trăm năm, suy nghĩ của chúng ta có ít nhiều thay đổi trước cảnh: "Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay" thế nhưng giá trị nhân đạo được gửi gắm vào những vần thơ của Nguyễn Du vẫn làm ta thực sự xúc động.
"Ngày vui ngắn chẳng tày gang". Cuộc vui nào rồi cũng đến lúc tàn. Buổi du xuân vui vẻ cũng dã tới chỗ phải nói lời tạm biệt. Vẫn là cảnh mùa xuân, vẫn là không khí của ngày hội lễ, nhưng bây giờ là giây phút cuối ngày:
Tà tà bóng ngả về tây,
............
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Nếu câu thơ mở đầu của "Cảnh ngày xuân" chan hòa ánh sáng "thiều quang" thì đến đây, hoàng hôn dường như bắt đầu nhuốm dần xuống phong cảnh và con người. Hội đã hết, ngày đã tàn nên nhịp thơ không còn cái rộn ràng, giục giã mà trái lại thật chậm rãi, khoan thai. Cảnh vật vì thế mang cái vẻ nên thơ, diu êm, vắng lặng trong ánh nắng nhạt dần. Dòng khe có chiếc cầu nho nhỏ cuối ghềnh tạo thành đường nét thể hiện linh hồn của bức tranh một buổi chiều xuân. Nhịp chân có chút tâm tình man mác nên "thơ thẩn" và đến đây là "bước dần", chẳng có gì nao nức, vội vàng. Các từ láy "tà tà", "thanh thanh", "nho nhỏ", "nao nao" góp phần làm nên sự yên ắng và nỗi buồn của cảnh vật, của con người. Cảnh vật và thời gian được miêu tả bằng bút phá ước lệ cổ điển nhưng vẫn gợi cho người đọc cảm giác gần gũi, thân quen vì nó đã thấm hồn dân tộc, mang bóng dáng cảnh sắc quê hương Việt Nam.
Rõ ràng, cảnh ở đây được nhìn qua tâm trạng nhân vật tham gia vào lễ hội. Hai chữ "nao nao" (Nao nao dòng nước uốn quanh) đã nhuốm màu tâm trạng lên cảnh vật. Dòng nước nao nao, trôi chậm lưu luyến bên chân cầu nho nhỏ, phải chăng cũng là nỗi lưu luyến, tiếc nuối của lòng người khi ngày vui chóng qua? Nguyễn Du đã từng viết: "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?". Vì vậy, khi vào lễ hội, người vui thì cảnh sắc rộn ràng tười mới. Lúc lễ hội tan rồi, người về sao tránh khỏi sự xao xuyến, cảnh sắc sao tránh khỏi màu ảm đạm! Dường như có một nỗi niềm man mác, bâng khuâng thấm sâu, lan tỏa trong tâm hồn vốn đa tình, đa cảm như Thúy Kiều. Và ở sáu dòng cuối này, Nguyễn Du không chỉ nhằm nói tâm trạng buồn tiếc khi lễ hội vừa tàn, mà hình như, ông chuẩn bị đưa nhân vật của mình vào một cuộc gặp gỡ khác, một thế giới khác. Như ta đã biết, ngay sau buổi Thanh minh, Nguyễn Du đã sắp đặt để Thúy Kiều gặp Đạm Tiên và Kim Trọng. Vì thế, cảnh vật trong hoàng hôn này cũng là một dự báo, một linh cảm cho đoạn trường mà đời kiều sắp phải bước qua. Tả cảnh, tả tình như thế thật khéo, cách chuyển ý cũng thật tinh tế, tự nhiên.
***********
Đây là bài văn mà mình đã làm cho câu 5 điểm môn văn của kì thi tuyển sinh lớp 10, bài này mình đã đạt 4,5đ/5đ. Các bạn tham khảo và cho ý kiến nhé. Còn 3 bài Kiều còn lại mình sẽ đưa lên sau trong thời gian nhanh nhất có thể.
(Nguồn-‎phân tích đoạn trích cảnh ngày xuân, và liều ở lầu ngưng bích của ...
www.google.com.vn/giaidap/thread?tid=0bc9b8342025ce4c‎)
Xong!...
 
Top Bottom