- 29 Tháng mười 2018
- 3,304
- 4,365
- 561
- TP Hồ Chí Minh
- THCS Nguyễn Hiền
[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!
ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.
1. Thời đại Cổ Triều Tiên (Gojoseon)
Con người bắt đầu sinh sống ở bán đảo Triều Tiên cách đây 70 vạn năm về trước. Họ bắt đầu dùng đồ đá từ 8.000 năm trước, sau đó là dùng đồ đồng cách đây 1.500 năm về trước. Về sau, Dangun thống nhất các bộ tộc ở Liêu Ninh và bắc bán đảo Triều Tiên thành quốc gia đầu tiên - Cổ Triều Tiên vào năm 2333 TCN. Cuối thế kỉ III TCN, vua nước Cổ Triều Tiên là Phủ lên ngôi, tiếp đó con trai là Chuẩn lên ngôi. Ở thời Chuẩn, cư dân Trung Quốc không chịu nổi bị Tần Thủy Hoàng áp bức nên chạy sang Cổ Triều Tiên rất nhiều và định cư ở đó.
Năm 194 TCN, viên quý tộc Vệ Mãn khởi nghĩa lật đổ Chuẩn, thành lập nước Vệ Mãn Triều Tiên. Năm 108 TCN, quân Hán đánh bại quân Vệ Mãn và chiếm đóng Cổ Triều Tiên một thời gian (108 - 82 TCN)
2. Thời Tam quốc (37 TCN - 668)
Thời kỳ này bắt đầu khi Jomong thành lập nước Cao Câu Ly nằm ở trung lưu sông Áp Lục. Năm 53, vua Taejo (53 – 146) mở các cuộc chinh phạt diệt 4 nước xung quanh, đấu tranh mạnh mẽ với chính quyền Hán của Trung Quốc. Đến thời vua Gwanggeto (391 - 413) và Jangsu (413 - 419), quân Cao Câu Ly đã chiếm được một vùng rộng lớn gồm Mãn Châu và phần lớn bán đảo Triều Tiên. Đầu thế kỷ VII, liên minh Cao Cao Ly liên tiếp hai lần đánh bại quân Tùy. Thế kỷ VII, Cao Câu Ly khủng hoảng và bị liên minh quân Đường + Tân La tiêu diệt năm 668.
Bách Tế (18 TCN - 660) do Onjo thành lập ở miền nam sông Hán gần Seoul và là một liên minh vương quốc giống Cao Câu Ly. Thời vua Geunchongo (346 - 375), Bách Tế phát triển thành quốc gia tập quyền, nhiều lần tiến đánh Cao Câu Ly và Tân La. Năm 660, quân Bách Tế bị quân nhà Đường tiêu diệt
Tân La (57 TCN - 935) là vương quốc ở đông nam bán đảo Triều Tiên; lúc đầu kém phát triển nhất. Do vị trí địa lý đặc biệt, Tân La chủ yếu kế thừa tư tưởng Phật giáo tiến bộ và hình thành tầng lớp quý tộc quân sự trẻ (gọi là Hwarang). Thời vua Chinhung (540 - 576), Tân La đánh bại quân Bách Tế và mở rộng cương vực đến hết lưu vực sông Hàn, chấm dứt liên minh kéo dài 121 năm giữa Tân La và Bách Tế. Năm 589, vua Tân La liên minh với Hoàng đế nhà Tùy tiến đánh Cao Câu Ly, nhưng thất bại thảm hại. Sau khi lật đổ vua tiền nhiệm, Muyol (654 - 661) bắt đầu thực hiện nhà nước chuyên chế, đồng thời liên minh với nhà Đường tiến đánh hai nước còn lại.
3. Tân La thống nhất
Sau khi quân Đường đánh bại Cao Câu Ly và thống trị ở nước này, quân Tân La nhanh chóng xâm lấn và đến năm 676 thì buộc vua Đường thừa nhận Tân La thống nhất bán đảo Triều Tiên. Kinh đô đặt tại Kyongju. Thời vua Sinmun (681 - 691), nhà vua lập "năm kinh đô hạng nhì" và cho phép quý tộc thu tô thuế của nông dân; Tân La bước vào thời kỳ thịnh vượng nhất. Chùa Phật Quốc tự (Bulguksa) được xây dựng tráng lệ nhất. Cuối thời Tân La, triều đình áp thuế quá cao khiến nhân dân khắp nơi và Tân La thống nhất tan rã, bị chia cắt thành 3 nước.
Trong thời Tân La thống nhất, một cựu thần của Cao Câu Ly thành lập nước Bột Hải (Parhae) vào năm 698 ở nam Mãn Châu. Năm 733, quân Bột Hải đánh tan liên minh quân Tân La + nhà Đường. Triều đình đóng ở Sanggyong, cơ cấu 3 ban và 6 bộ. Chính quyền Bột Hải cũng khuyến khích cử người sang học tập văn hóa Trung Hoa để áp dụng vào nước mình. Năm 926, Bột Hải bị quân Khiết Đan tiêu diệt.
4. Vương triều Cao Ly (918 - 1392)
Vương triều do Vương Kiến, một tướng của vua Cung Duệ nước Hậu Bách Tế, thành lập. Ông chọn Songhak (nay thuộc miền bắc Triều Tiên) làm kinh đô. Thời vua Kwangjong (949 - 975), quân Cao Ly xâm nhập vào lãnh thổ của Khiết Đan, thi hành chế độ khoa cử. Songjong (981 - 987) xác lập vị thế quyền lực cho quý tộc cung đình, chia ra 3 ban và 6 bộ, cùng với việc lập Đại học ở kinh đô. Cuối thời Songjong, quân Khiết Đan xâm lăng ba lần, nhưng đều bị đánh tan. Năm 1107, Cao Ly thần phục nước của người Nữ Chân, tránh giao tranh. Thế kỷ XI, quý tộc văn tướng và võ tướng xung đột lẫn nhau, khiến quân Mông Cổ xâm lược dễ dàng và nhanh chóng đô hộ Cao Ly một thời gian (thế kỷ XIII). Năm 1234, bản khắc in kinh Phật giáo bằng chữ rời đầu tiên được khai sinh, trước châu Âu hai thế kỷ. Năm 1351, vua Cung Mẫn vương (1351 - 1374) phát động kháng chiến chống quân chiếm đóng Mông Cổ. Năm 1388, nhân cơ hội quân chủ lực triều đình bận đánh nhau với Mông Cổ, viên tướng Lý Thành Quế soán ngôi, lập vương triều mới
5. Vương triều Triều Tiên (1392 - 1910)
Từ thời vua đầu tiên là Thái Tổ về sau, triều đình cai trị hài hòa theo Khổng giáo và chú trọng thi cử - hình thành tầng lớp sĩ phu (yangban) khống chế giáo dục Triều Tiên; đến thế kỷ XV phân hóa thành Cựu Nho giáo và Tân Nho giáo xung khắc lẫn nhau và khống chế triều đình. Taejong (1400 - 1418) bãi bỏ các đạo quân của vương hầu nhằm xác lập quyền lực vào tay nhà vua, làm tiền giấy (1401). Thời vua Sejo (1455 - 1468), vua ban cấp đất cho quan lại theo phẩm trật, khởi xướng biên soạn bộ "Quốc triều hình luật" (Gyeongguk daejeon), đúc tiền đồng (1412, 1464) nhưng kết quả rất hạn chế.
Vua thứ 4 là Sejong (1418 - 1450) sáng chế ra thiết bị đo lượng mưa đầu tiên (1442), đồng hồ nước, đồng hồ mặt trời và sáng tạo ra bảng chữ cái Hangul năm 1446. Năm 1451, vua tài trợ hoàn thành bộ Quốc sử Triều Tiên. Thời Songjong (1469 - 1494), học giả Tân Nho giáo bành trướng mạnh mẽ, khiến giới cựu Nho giáo (yangban) thực hiện 2 cuộc thanh trừng lớn chống phe Tân Nho giáo thời vua Yeonsan-gun (1494 - 1506) và Chungjong (1506 - 1544). Thời Sonjo (1567 - 1608), Tân Nho giáo có ưu thế, mở tới 100 trường học; nên xảy ra sự kiện Nhật Bản hai lần xâm lăng Triều Tiên cuối thế kỷ XVI.
Kwanghaegun (1608 - 1623) lên ngôi đã lập lại sự yên bình của đất nước. Nhưng đấu tranh phe phái vẫn diễn ra và Injo (1623 - 1649) lên ngôi đã thân Minh và chống Mãn Thanh. Năm 1627, quân Mãn Thanh xâm lược và biến Triều Tiên thành chư hầu. Nhưng đến giữa thế kỷ XVIII, tầng lớp quý tộc có ý đồ trở lại thời bè phái, nhưng ý định này nhanh chóng bị vua Yeonjo (1724 - 1776) dẹp tan, vua duy trì chính sách không thiên vị. Con trai ông là Jeongjo (1776 - 1800) duy trì chính sách của cha, lập Thư viện hoàng gia và cho phép giới học giả Silhak (chủ trương thực hành) hoát động mạnh mẽ nhưng ông không chấp nhận các đề xuất cải cách của họ (tức Silhak), cấm Công giáo hoạt động.
Quốc vương còn bé là Sunjo (1800 - 1834) vừa lên ngôi đã bị các quý tộc khống chế mạnh; nhưng thời ông chứng kiến sự phát triển của Silhak và Tonghak. Các vua sau thời Sunjo mất quyền lực hoàn toàn, toàn bộ quyền lực do tầng lớp quý tộc thay nhau khống chế. Tình trạng tham nhũng, mua chuộc quan chức tràn lan khiến chính quyền trung ương không thể kiểm soát nổi; nổi dậy của nhân dân, đàn áp Công giáo liên tiếp diễn ra.
Năm 1864, Kojong (1864 - 1907) lên ngôi lúc bé và nhiếp chính là cha ông, hoàng thân Teawon-gun. Hoàng thân nhiếp chính tiến hành loại bỏ quan chức tham nhũng, duy trì tư hữu và phát triển mạnh khoa học, chống Công giáo quyết liệt nhất. Do sự kiện tàu Mỹ "gây rối" năm 1871, hoàng thân nhiếp chính đã phải từ bỏ quyền lực. Năm 1876, Nhật xâm nhập và buộc Triều Tiên ký Hiệp ước Giang Hoa khiến vua Triều Tiên phải mở cửa, bất chấp các phản đối trong nước. Quân Trung Hoa can thiệp, nhưng lập tức bị quân Nhật đánh tan (1894 - 1895). Cuối năm 1895, Nhật âm mưu ám sát Hoàng hậu Minh Thành, người nỗ lực cho việc chặn đứng âm mưu xâm lăng của Nhật vào Triều Tiên. Lo ngại Triều Tiên sẽ ngả về Nga, Nhật quyết định gây chiến với Nga (1904 - 1905) và đánh bại đế quốc này, chính thức xâm nhập vào Triều Tiên qua hiệp ước Ito Hirobumi - Han Kyu-sol (1906). Năm 1907, vua Kojong bị buộc phải thoái vị, quân Nhật bắt đầu xâm lăng Triều Tiên. Nhân dân Triều Tiên chiến đấu anh dũng, đánh gần 3000 trận chiến chống quân xâm lược, nhưng thất bại; gần 2 vạn người yêu nước Triều Tiên hi sinh (1907 - 1910). Năm 1909, một thanh niên yêu nước là An Trọng Căn ám sát viên Thủ tướng Nhật Hirobumi, nhưng anh bị bắt và bị kẻ thù xử tử. Ngày 22/8/1910, Nhật chính thức chiếm đóng Triều Tiên, toàn quyền Triều Tiên đầu tiên là Terauchi.
Nguồn tham khảo: tổng hợp từ nhiều tài liệu
Con người bắt đầu sinh sống ở bán đảo Triều Tiên cách đây 70 vạn năm về trước. Họ bắt đầu dùng đồ đá từ 8.000 năm trước, sau đó là dùng đồ đồng cách đây 1.500 năm về trước. Về sau, Dangun thống nhất các bộ tộc ở Liêu Ninh và bắc bán đảo Triều Tiên thành quốc gia đầu tiên - Cổ Triều Tiên vào năm 2333 TCN. Cuối thế kỉ III TCN, vua nước Cổ Triều Tiên là Phủ lên ngôi, tiếp đó con trai là Chuẩn lên ngôi. Ở thời Chuẩn, cư dân Trung Quốc không chịu nổi bị Tần Thủy Hoàng áp bức nên chạy sang Cổ Triều Tiên rất nhiều và định cư ở đó.
Năm 194 TCN, viên quý tộc Vệ Mãn khởi nghĩa lật đổ Chuẩn, thành lập nước Vệ Mãn Triều Tiên. Năm 108 TCN, quân Hán đánh bại quân Vệ Mãn và chiếm đóng Cổ Triều Tiên một thời gian (108 - 82 TCN)
2. Thời Tam quốc (37 TCN - 668)
Thời kỳ này bắt đầu khi Jomong thành lập nước Cao Câu Ly nằm ở trung lưu sông Áp Lục. Năm 53, vua Taejo (53 – 146) mở các cuộc chinh phạt diệt 4 nước xung quanh, đấu tranh mạnh mẽ với chính quyền Hán của Trung Quốc. Đến thời vua Gwanggeto (391 - 413) và Jangsu (413 - 419), quân Cao Câu Ly đã chiếm được một vùng rộng lớn gồm Mãn Châu và phần lớn bán đảo Triều Tiên. Đầu thế kỷ VII, liên minh Cao Cao Ly liên tiếp hai lần đánh bại quân Tùy. Thế kỷ VII, Cao Câu Ly khủng hoảng và bị liên minh quân Đường + Tân La tiêu diệt năm 668.
Bách Tế (18 TCN - 660) do Onjo thành lập ở miền nam sông Hán gần Seoul và là một liên minh vương quốc giống Cao Câu Ly. Thời vua Geunchongo (346 - 375), Bách Tế phát triển thành quốc gia tập quyền, nhiều lần tiến đánh Cao Câu Ly và Tân La. Năm 660, quân Bách Tế bị quân nhà Đường tiêu diệt
Tân La (57 TCN - 935) là vương quốc ở đông nam bán đảo Triều Tiên; lúc đầu kém phát triển nhất. Do vị trí địa lý đặc biệt, Tân La chủ yếu kế thừa tư tưởng Phật giáo tiến bộ và hình thành tầng lớp quý tộc quân sự trẻ (gọi là Hwarang). Thời vua Chinhung (540 - 576), Tân La đánh bại quân Bách Tế và mở rộng cương vực đến hết lưu vực sông Hàn, chấm dứt liên minh kéo dài 121 năm giữa Tân La và Bách Tế. Năm 589, vua Tân La liên minh với Hoàng đế nhà Tùy tiến đánh Cao Câu Ly, nhưng thất bại thảm hại. Sau khi lật đổ vua tiền nhiệm, Muyol (654 - 661) bắt đầu thực hiện nhà nước chuyên chế, đồng thời liên minh với nhà Đường tiến đánh hai nước còn lại.
3. Tân La thống nhất
Sau khi quân Đường đánh bại Cao Câu Ly và thống trị ở nước này, quân Tân La nhanh chóng xâm lấn và đến năm 676 thì buộc vua Đường thừa nhận Tân La thống nhất bán đảo Triều Tiên. Kinh đô đặt tại Kyongju. Thời vua Sinmun (681 - 691), nhà vua lập "năm kinh đô hạng nhì" và cho phép quý tộc thu tô thuế của nông dân; Tân La bước vào thời kỳ thịnh vượng nhất. Chùa Phật Quốc tự (Bulguksa) được xây dựng tráng lệ nhất. Cuối thời Tân La, triều đình áp thuế quá cao khiến nhân dân khắp nơi và Tân La thống nhất tan rã, bị chia cắt thành 3 nước.
Trong thời Tân La thống nhất, một cựu thần của Cao Câu Ly thành lập nước Bột Hải (Parhae) vào năm 698 ở nam Mãn Châu. Năm 733, quân Bột Hải đánh tan liên minh quân Tân La + nhà Đường. Triều đình đóng ở Sanggyong, cơ cấu 3 ban và 6 bộ. Chính quyền Bột Hải cũng khuyến khích cử người sang học tập văn hóa Trung Hoa để áp dụng vào nước mình. Năm 926, Bột Hải bị quân Khiết Đan tiêu diệt.
4. Vương triều Cao Ly (918 - 1392)
Vương triều do Vương Kiến, một tướng của vua Cung Duệ nước Hậu Bách Tế, thành lập. Ông chọn Songhak (nay thuộc miền bắc Triều Tiên) làm kinh đô. Thời vua Kwangjong (949 - 975), quân Cao Ly xâm nhập vào lãnh thổ của Khiết Đan, thi hành chế độ khoa cử. Songjong (981 - 987) xác lập vị thế quyền lực cho quý tộc cung đình, chia ra 3 ban và 6 bộ, cùng với việc lập Đại học ở kinh đô. Cuối thời Songjong, quân Khiết Đan xâm lăng ba lần, nhưng đều bị đánh tan. Năm 1107, Cao Ly thần phục nước của người Nữ Chân, tránh giao tranh. Thế kỷ XI, quý tộc văn tướng và võ tướng xung đột lẫn nhau, khiến quân Mông Cổ xâm lược dễ dàng và nhanh chóng đô hộ Cao Ly một thời gian (thế kỷ XIII). Năm 1234, bản khắc in kinh Phật giáo bằng chữ rời đầu tiên được khai sinh, trước châu Âu hai thế kỷ. Năm 1351, vua Cung Mẫn vương (1351 - 1374) phát động kháng chiến chống quân chiếm đóng Mông Cổ. Năm 1388, nhân cơ hội quân chủ lực triều đình bận đánh nhau với Mông Cổ, viên tướng Lý Thành Quế soán ngôi, lập vương triều mới
5. Vương triều Triều Tiên (1392 - 1910)
Từ thời vua đầu tiên là Thái Tổ về sau, triều đình cai trị hài hòa theo Khổng giáo và chú trọng thi cử - hình thành tầng lớp sĩ phu (yangban) khống chế giáo dục Triều Tiên; đến thế kỷ XV phân hóa thành Cựu Nho giáo và Tân Nho giáo xung khắc lẫn nhau và khống chế triều đình. Taejong (1400 - 1418) bãi bỏ các đạo quân của vương hầu nhằm xác lập quyền lực vào tay nhà vua, làm tiền giấy (1401). Thời vua Sejo (1455 - 1468), vua ban cấp đất cho quan lại theo phẩm trật, khởi xướng biên soạn bộ "Quốc triều hình luật" (Gyeongguk daejeon), đúc tiền đồng (1412, 1464) nhưng kết quả rất hạn chế.
Vua thứ 4 là Sejong (1418 - 1450) sáng chế ra thiết bị đo lượng mưa đầu tiên (1442), đồng hồ nước, đồng hồ mặt trời và sáng tạo ra bảng chữ cái Hangul năm 1446. Năm 1451, vua tài trợ hoàn thành bộ Quốc sử Triều Tiên. Thời Songjong (1469 - 1494), học giả Tân Nho giáo bành trướng mạnh mẽ, khiến giới cựu Nho giáo (yangban) thực hiện 2 cuộc thanh trừng lớn chống phe Tân Nho giáo thời vua Yeonsan-gun (1494 - 1506) và Chungjong (1506 - 1544). Thời Sonjo (1567 - 1608), Tân Nho giáo có ưu thế, mở tới 100 trường học; nên xảy ra sự kiện Nhật Bản hai lần xâm lăng Triều Tiên cuối thế kỷ XVI.
Kwanghaegun (1608 - 1623) lên ngôi đã lập lại sự yên bình của đất nước. Nhưng đấu tranh phe phái vẫn diễn ra và Injo (1623 - 1649) lên ngôi đã thân Minh và chống Mãn Thanh. Năm 1627, quân Mãn Thanh xâm lược và biến Triều Tiên thành chư hầu. Nhưng đến giữa thế kỷ XVIII, tầng lớp quý tộc có ý đồ trở lại thời bè phái, nhưng ý định này nhanh chóng bị vua Yeonjo (1724 - 1776) dẹp tan, vua duy trì chính sách không thiên vị. Con trai ông là Jeongjo (1776 - 1800) duy trì chính sách của cha, lập Thư viện hoàng gia và cho phép giới học giả Silhak (chủ trương thực hành) hoát động mạnh mẽ nhưng ông không chấp nhận các đề xuất cải cách của họ (tức Silhak), cấm Công giáo hoạt động.
Quốc vương còn bé là Sunjo (1800 - 1834) vừa lên ngôi đã bị các quý tộc khống chế mạnh; nhưng thời ông chứng kiến sự phát triển của Silhak và Tonghak. Các vua sau thời Sunjo mất quyền lực hoàn toàn, toàn bộ quyền lực do tầng lớp quý tộc thay nhau khống chế. Tình trạng tham nhũng, mua chuộc quan chức tràn lan khiến chính quyền trung ương không thể kiểm soát nổi; nổi dậy của nhân dân, đàn áp Công giáo liên tiếp diễn ra.
Năm 1864, Kojong (1864 - 1907) lên ngôi lúc bé và nhiếp chính là cha ông, hoàng thân Teawon-gun. Hoàng thân nhiếp chính tiến hành loại bỏ quan chức tham nhũng, duy trì tư hữu và phát triển mạnh khoa học, chống Công giáo quyết liệt nhất. Do sự kiện tàu Mỹ "gây rối" năm 1871, hoàng thân nhiếp chính đã phải từ bỏ quyền lực. Năm 1876, Nhật xâm nhập và buộc Triều Tiên ký Hiệp ước Giang Hoa khiến vua Triều Tiên phải mở cửa, bất chấp các phản đối trong nước. Quân Trung Hoa can thiệp, nhưng lập tức bị quân Nhật đánh tan (1894 - 1895). Cuối năm 1895, Nhật âm mưu ám sát Hoàng hậu Minh Thành, người nỗ lực cho việc chặn đứng âm mưu xâm lăng của Nhật vào Triều Tiên. Lo ngại Triều Tiên sẽ ngả về Nga, Nhật quyết định gây chiến với Nga (1904 - 1905) và đánh bại đế quốc này, chính thức xâm nhập vào Triều Tiên qua hiệp ước Ito Hirobumi - Han Kyu-sol (1906). Năm 1907, vua Kojong bị buộc phải thoái vị, quân Nhật bắt đầu xâm lăng Triều Tiên. Nhân dân Triều Tiên chiến đấu anh dũng, đánh gần 3000 trận chiến chống quân xâm lược, nhưng thất bại; gần 2 vạn người yêu nước Triều Tiên hi sinh (1907 - 1910). Năm 1909, một thanh niên yêu nước là An Trọng Căn ám sát viên Thủ tướng Nhật Hirobumi, nhưng anh bị bắt và bị kẻ thù xử tử. Ngày 22/8/1910, Nhật chính thức chiếm đóng Triều Tiên, toàn quyền Triều Tiên đầu tiên là Terauchi.
Nguồn tham khảo: tổng hợp từ nhiều tài liệu