Địa 12 Ảnh hưởng của việc gia nhập WTO đến việc sản xuất nông nghiệp ở VN?

C

cactaceous

ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC:
- Mở rộng được thi trường ra bên ngoài, giải quyết bài toán tiêu thụ hàng hóa
- Phát triển nông nghiệp theo hướng cơ giới hóa, hiện đại hóa,...
- Áp dụng khoa học kĩ thuật, máy móc hiện đại vào nông nghiệp
- Nông dân Việt Nam nắm được quy trình sản xuất hiệu quả, khoa học, tạo ra những sản phẩm có giá trị và khả năng cạnh tranh cao trên thị trường
ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC:
- Sản phẩm có chất lượng chưa cao, khó cạnh tranh trên thị trường thế giới
- Quy trình sản xuất vẫn còn lạc hậu so với thế giới, nông dân chưa có kiến thức về chăn nuôi, trồng trọt... phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế
- Chất lượng hàng hóa còn thấp, khó cạnh tranh trên thị trường
- Giá cả hàng hóa thấp, mang lại lợi nhuận chưa cao
 
L

lamnun_98

Có nhiều bằng chứng cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam đã phản ứng tích cực trước những thuận lợi mà quá trình gia nhập WTO đem lại. Phản ứng của các doanh nghiệp đối với các cam kết gia nhập WTO phụ thuộc vào hai yếu tố quan trọng. Thứ nhất, mức độ tự do hóa các rào cản đối với thương mại và các nhà xuất khẩu của Việt Nam cũng như các nhà doanh nghiệp nước ngoài xuất khẩu sang Việt Nam gặp phải. Thứ hai, mức độ nhận thức và khả năng của các doanh nghiệp Việt Nam trong việc tận dụng cơ hội tăng cường khả năng tiếp cận các thị trường nước ngoài và khả năng điều chỉnh trong môi trường cạnh tranh cao hơn tại thị trường trong nước. Nói cách khác, việc gia nhập WTO có thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam hay không không chỉ phụ thuộc vào những thay đổi tích cực trong việc tiếp cận thị trường do quá trình gia nhập WTO đem lại mà còn phụ thuộc vào các hành động cụ thể của Chính phủ Việt Nam và các doanh nghiệp. Đặc biệt, thành công xuất khẩu sẽ phụ thuộc vào thông tin kinh doanh, cơ sở hạ tầng cho các nhà xuất khẩu và tinh thần doanh nghiệp của họ. Cả Đảng Cộng sản Việt Nam và Chính phủ đều nhận thức đầy đủ về các vấn đề này, như được thể hiện trong Nghị quyết và Chương trình hành động năm 2007 liên quan tới việc Việt Nam gia nhập WTO (Chính phủ Việt Nam năm 2007). Nghị quyết này kêu gọi tăng cường hỗ trợ kỹ thuật cho các doanh nghiệp Việt Nam để tận dụng cơ hội và điểu chỉnh trước những thay đổi về thể chế do việc gia nhập WTO đem lại.
Phản ứng chiến lược. Tuy nhiên, gia nhập WTO không phải là một “thần dược” đối với nhiều doanh nghiệp Việt Nam. Trên thực tế, trong một số khía cạnh quan trọng, gia nhập có thể làm tăng thách thức mà các doanh nghiệp trong nước gặp phải. Loại bỏ trợ cấp và giảm thuế nhập khẩu được coi là sẽ khiến một số ngành trong nước gặp nhiều khó khăn hơn và sẽ phải điều chỉnh. Rất nhiều cam kết cắt giảm thuế quan đã được thực thi và các cam kết khác sẽ được thực hiện trong tương lai gần. Quá trình này đòi hỏi các doanh nghiệp phải giám sát những sự thay đổi và đề ra phản ứng chiến lược hợp lý (ở mức độ công ty, phản ứng chiến lược đề cập tới phản ứng trước những điều chỉnh cơ cấu ở cấp kinh tế vĩ mô). Rõ ràng, các mức thuế suất bình quân không có ý nghĩa nhiều đối với các doanh nghiệp, từng doanh nghiệp phải tự mình xem xét các dòng thuế cụ thể và phân tích khả năng cạnh tranh của mình tại từng thị trường xuất khẩu cụ thể. Trong quá trình này, cần phải xem xét kỹ các cam kết trong các thỏa thuận hội nhập khu vực mà Việt Nam đã tham gia trước khi có thể phân tích đầy đủ quá trình tự do hóa mà WTO đem lại xét về khía cạnh thị trường. Ví dụ, trong khuôn khổ Hiệp định ASEAN – Trung Quốc, Việt Nam đã cam kết từ năm 2008 sẽ áp dụng thuế suất 0% đối với thịt lợn nhập khẩu và trong bối cảnh này, bất kỳ cam kết cắt giảm nào đối với thịt bò trong WTO trong thời điểm hiện nay sẽ không có ý nghĩa quan trọng trên thực tế vì rất ít Thành viên WTO có khả năng cạnh tranh với Trung Quốc đối với mặt hàng này. Do đó, các công ty cần bổ sung các thông tin liên quan tới WTO vào dữ liệu thông tin thị trường của mình và cân nhắc những diễn biến trong hệ thống WTO khi xem xét các lựa chọn chiến lược dài hạn (ITC, 2001). Ví dụ, quá trình tự do hóa thương mại đa biên có thể làm xói mòn những ưu đãi thuế quan mà Việt Nam được hưởng tại một số nước phát triển nhất định nhờ quy chế đối xử đặc biệt và khác biệt. Sự xói mòn này có thể làm giảm khả năng cạnh tranh do tác động phân hóa thương mại của các thỏa thuận hội nhập khu vực. Ví dụ, trường hợp một số nhà sản xuất hàng dệt may của Việt Nam đang gặp phải cạnh tranh ngày càng tăng trên thị trường EU sau khi một số nước Đông Âu có ngành sản xuất hàng dệt may lớn gia nhập EU.
Các cuộc đàm phán dịch vụ cũng tạo ra nhiều thách thức cho Việt Nam, tuy nhiên trong lĩnh vực dịch vụ thì một số cam kết WTO trong một số ngành/phân ngành, ví dụ như ngân hàng và bảo hiểm, đã được tự do hóa ở một số Hiệp định khác như Hiệp định Thương mại song phương (BTA) giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Tương tự như đối với hàng hóa, các nhà quản lý khi phân tích các cam kết WTO phải so sánh chúng với các cam kết khu vực. Liên quan tới vấn đề sở hữu, một yếu tố quan trọng là cần phân tích chính xác những lĩnh vực cho phép nước ngoài chiếm sở hữu đa số ngay tại thời điểm gia nhập hoặc sau một giai đoạn chuyển tiếp nhất định. Có thể tham khảo rất nhiều thông tin liên quan trên các trang thông tin điện tử của Bộ Tài chính tại Hà Nội.
 
Top Bottom