Sử 7 Triều Nguyễn thời kì độc lập (1802-1883)

_haphuong36_

Cựu TMod Sử
Thành viên
15 Tháng mười 2019
995
2
1,484
151
17
Thái Bình
THPT Bắc Duyên Hà
[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

GIA LONG HOÀNG ĐẾ (1802-1819)
Niên hiệu: Gia Long
Nguyễn Ánh lấy được Gia Định năm Mậu Thân (1788) tuy đã xưng Vương mà chưa đặt niên hiệu riêng, vẫn dùng hiệu của vua Lê. Tháng 5 năm Nhâm Tuất (1802) lấy lại được toàn bộ đất đai cũ của các chúa Nguyễn, Nguyễn Phúc Ánh cho lập đàn tế cáo trời đất, thiết triều tại Phú Xuân, đặt niên hiệu Gia Long.
Lê Quang Định được cử làm Chánh sứ sang nhà Thanh xin phong Vương và đổi tên nước là Nam Việt. Vua Thanh cho rằng tên nước là Nam Việt sẽ lẫn với nước của Triệu Đà (gồm cả Đông Việt, Tây Việt) nên đổi là Việt Nam. Thế là năm Giáp Tý (1804) Án sát Quảng Tây Tề Bồ Sâm được vua Thanh phái sang phong Vương cho Gia Long và nước ta có tên là Việt Nam. Năm Bính Dần (1806), Gia Long chính thức làm lễ xưng Đế ở điện Thái Hoà và từ đây quy định cứ ngày rằm và mồng một thì thiết đại triều; các ngày 5, 10, 20 và 25 thì thiết tiểu triều.
Emperor_Gia_Long.jpg
Chân dung vua Gia Long
Là vua sáng nghiệp của triều Nguyễn, của một quốc gia thống nhất, Gia Long phải giải quyết rất nhiều việc đặt nền móng cho vương triều có một địa bàn thống trị rộng lớn từ Bắc chí Nam. Để tránh lộng quyền, ngay từ đầu nhà vua bãi bỏ chức vụ Tể tướng. Ở triều đình chỉ đặt ra 6 bộ: Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công, do các Thượng thư đứng đầu và Tả hữu tham tri, Tả hữu thị lang giúp việc.
Quản lý một đất nước thống nhất kéo dài từ Lạng Sơn đến Hà Tiên đối với Gia Long lúc đó là hoàn toàn mới mẻ. Gia Long cho tổ chức lại các đơn vị hành chính từ Trung ương xuống. Cả nước chia ra thành 23 trấn, 4 doanh. Từ Ninh Bình trở ra gọi là Bắc Thành gồm 11 trấn (5 nội trấn và 6 ngoại trấn); từ Bình Thuận trở vào gọi là Gia Định thành gồm 5 trấn; ở quãng giữa là các trấn độc lập: Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Nghĩa, Bình Định, Phú Yên, Bình Hoà, Bình Thuận; đất kinh kì đặt 4 doanh: Trực Lệ Quảng Đức doanh (tức Thừa Thiên), Quảng Trị doanh, Quảng Bình doanh và Quảng Nam doanh. Cai quản Bắc Thành và Gia Định thành có Tổng trấn và Phó Tổng trấn. Mỗi trấn có Lưu trấn hay Trấn thủ, Cai bạ và Ký lục. Trấn chia ra phủ, huyện, châu có Tri phủ, Tri huyện, Tri châu đứng đầu. Đây là lần đầu tiên trên lãnh thổ thống nhất các tổ chức hành chính được sắp đặt chính quy như vậy.
Quản lý định khẩu, ruộng đất và thuế khoá áp dụng theo mẫu hình thời Lê Sơ nhưng được thục hiên trên quy mô lớn hơn, có quy củ hơn. Đáng chú ý là việc làm sổ ruộng (địa bạ) dưới thời Gia Long được tiến hành nhất loạt, có quy mô toàn quốc. Các làng, xã phải lập sổ địa bạ, ghi rõ từng loại ruộng đất, diện tích, vị trí, công, tư,... chép thành 3 bản nộp lên bộ Hộ. Bộ đóng dấu kiềm, lưu 1 quyển, tỉnh giữ 1, xã giữ 1. Năm năm lại làm địa bạ 1 lần. Đến nay còn lưu giữ khá đủ toàn bộ địa bạ của Gia Long của các trấn, doanh cả nước. Cả nước gồm 4 địa hình sông núi, cầu quán, chợ búa, phong tục, thổ sản,... năm Bính Dần (1806), vua Gia Long sai biên soạn và ban hành bộ "Nhất thống địa dư chí" gồm 10 quyển.
Năm Ất Hợi (1815) bộ "Quốc triều hình luật" gồm 22 quyển với 298 điều luật được ban hành.
Gia_Long_Thong_Bao_Hai_Mat.jpg
Đồng tiền đúc thời Gia Long (loại 7 phân)
Công cuộc khai hoang vùng đồng bằng sông Cửu Long được tiếp tục. Nhà nước đã bãi bỏ tiền đào kênh thoát nước Thuỷ Hà và sông Vĩnh Tế tạo thuận lợi cho việc khẩn hoang. Những công trình lớn như sông Chân Lập dọc hai bờ có sông chảy qua. Việc trị thuỷ vùng đồng bằng Bắc Bộ cũng được Gia Long chú ý làm lễ thụ phong của nhà Thanh. Gia Long cũng nêu vấn đề đắp đê để sĩ phu Bắc Hà bàn luận. Mặc dù chưa nhất trí, nhà vua vẫn quyết định đắp đê. Thời Gia Long khối lượng đê, kè, cống được đắp nhiều nhất so với các thời trước.
Đối ngoại, triều Nguyễn một mặt tranh thủ sự ủng hộ và giữ lễ thần phục nhà Thanh, mặt khác lại tạo quan hệ đàn anh đối với Chân Lạp (Cham-pa) và Ai Lao (Lào). Đối với các nước phương Tây, từ chỗ dựa vào lực lượng của họ để giành thắng lợi chuyển sang lạnh nhạt. Năm Quý Hợi (1803), nước Anh xin mở cửa hàng buôn bán ở Trà Sơn (Quảng Nam) bị nhà vua từ chối. Sĩ quan Pháp từng giúp vua được trọng đãi, giữ chức tại triều, mỗi người có 50 lính hầu, ra đặc ân buổi chầu không phải lạy... Còn yêu sách khác của chính phủ Pháp đều bị khước từ. Năm Đinh Sửu (1817) tàu buôn Pháp tên là "La paix" (hoà bình) chở hàng sang bán nhưng không hợp thị hiếu người Việt Nam, phải trở về, được miễn thuế. Đến khi tàu Cybèle vào Đà Nẵng đưa thư Hoàng Đế Pháp nhắc lại việc thi hành điều ước kí năm Đinh Mùi (1787) (Bá Đa Lộc thay mặt Nguyễn Ánh, có khoản nhường cho Pháp cửa biển Đà Nẵng và đảo Côn Lôn). Gia Long kiên quyết bác bỏ, viện lí rằng: Điều ước tuy đã kí nhưng thuở đó, phía Pháp không thực hiện thì nay không còn giá trị nữa! Nhà Nguyễn không cấm hẳn các thuyền buôn phương Tây song cũng không mời chào, khuyến khích hoặc có một chính sách tỏ ra chủ động, tích cực hơn.
Một trong những tai tiếng và gần như là căn bệnh của mọi vua, chúa sáng nghiệp gian nan và lâu dài là sát hại công thần. Những người có công như Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường đều bị giết hại
giữa lúc Gia Long đang trị vì.
Nguyễn Văn Thành nguyên là người Thừa Thiên, vào Gia Định đã 2-3 đời, theo Nguyễn Ánh từ những ngày đầu, chịu muôn nỗi gian truân cùng chủ tướng.
Nguyễn Văn Thành có tài và lập nhiều công lớn, đứng đầu hàng công thần. Gia Long lên ngôi giao Nguyễn Văn Thành làm Tổng trấn Bắc Thành, tình hình đất Bắc đã yên ổn sau nhiều năm loạn lạc liên miên. Sau đó, Thành được triệu về kinh, lãnh chức Trung quân. Thành vốn có tài trước thuật nên được giao làm Tổng tài bộ quốc triều hình luật và biên soạn quốc sử. Con trai ông là Nguyễn Văn Thuyên đỗ cử nhân, là người hâm mộ văn chương. Nhân Thuyên làm thơ ngâm vịnh với bạn bè, lời lẽ khi ngông, các đối thủ vốn ngầm đố kị công lao của Thành, liền vu cho Thuyên có mưu đồ thoán đoạt ngôi vua, cha con Nguyễn Văn Thành cùng bị hạch tội. Thuyên bị bắt giam, Thành bị triều thần nghị tội tử. Sau buổi triều kiến, Thành chạy theo nắm lấy áo vua, kêu khóc thảm thiết:
- Thần theo bệ hạ từ nhỏ đến giờ, nay chẳng có tội gì mà lại bị người ta cấu xé. Bệ hạ nỡ lòng nào ngồi nhìn người ta giết thần mà không cứu!
Gia Long không nói gì, giật áo ra, đi vào cung, từ đó cấm không cho Thành vào chầu nữa. Lê Văn Duyệt đem Thuyên ra tra khảo, bắt phải nhận tội phản nghịch. Thành sợ, uống thuốc độc tự tử.
Thuyên bị chém. Bậc công thần thứ hai là Đặng Trần Thường có tài văn học, đã giúp Nguyễn Ánh từ những ngày đầu, làm đến Binh Bộ Thượng Thư. Sau vì bị hạch tội làm sắc phong cho Hoàng Ngũ Phúc (Tướng Trịnh) làm Phúc thần bị án giảo. Âu đâu cũng là một thứ luật đối với những người không biết dừng chân trước bả công danh!
download.jpg (19)chi_muc.jpg (13)anh_4.jpg
Nguyễn Văn Thành (trái) Đặng Trần Thường (giữa) Lê Văn Duyệt (phải)
Tháng 1 năm 1818, vua không được khoẻ, Hoàng Thái Tử và cận thần vào hầu, vua hạ chiếu cho Hoàng Thái Tử quyết đoán việc nước, tâu lên vua sau. Tháng 12, bệnh nguy kịch, vua gọi Hoàng Thái Tử, các hoàng tử và đại thần Lê Văn Duyệt, Phạm Đăng Hưng vào hầu. Vua cho bày ấn ngọc, cờ, gươm trên án vàng trước giường ngự rồi dụ Hoàng Thái Tử rằng:
- Đấy là cơ nghiệp gian nan của trẫm, nay giao lại cho con, con nên cẩn thận giữ gìn.
Hoàng Thái Tử cùng các tước công, đại thần uỷ lạo nhà vua, khuyên gắng gượng thuốc thang, an tâm tĩnh dưỡng, chớ nên lo lắng gì nhiều... Vua nói:
- Điều này, bọn ngươi không biết đâu. Phần truyền ngôi là việc lớn xưa nay, hôm nay nói được mà không nói, ngày khác chết thì sao nói kịp!
Vua liền gọi Thái Tử đến trước giường, dụ:
- Nay việc lớn của thiên hạ đã định rồi. Ta cũng sắp chết, không nói gì, chỉ có một việc là ngày sau phải cẩn thận, chớ nên gây hấn ngoài biên.
Nói rồi, vua sai Hoàng Thái Tử lấy bút chép lại lời đó. Thái Tử ngập ngừng muốn tránh chữ "Băng", vua liền cầm bút phê vào. Ngày Đinh Mùi tháng 12, vua băng ở điện Trung Hoà, thọ 59 tuổi.Gia Long tiếp tục làm chúa trong 25 năm, làm vua cả nước 18 năm, tổng cộng 43 năm.
Gia Long có hai vợ chính. Thứ nhất là Thế tổ Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu họ Tống, người huyện Tống Sơn, Thanh Hoá, con gái Quý Quốc công Tống Phúc Khuông. Nguyễn Phúc Ánh cưới bà năm 18 tuổi, người cung kính, cẩn thận, phép tắc, lễ độ. Bà sinh được hai Hoàng tử, con cả là Chiêu chết sớm, con thứ là Hoàng tử Cảnh từng theo Bá Đa Lộc làm con tin sang Pháp cầu viện rồi về nước làm Thái tử, sau bị bệnh đậu mùa mất năm Tân Dậu (1801). Bà thứ hai là Thuận thiên Cao hoàng hậu họ Trần, người huyện Hương Trà, phủ Thừa Thiên, lấy Nguyễn Ánh năm Giáp Ngọ (1774), năm Kỷ Dậu (1789) được tấn phong là Tả cung tần, hiệu Nhị phi. Bà sinh được 4 Hoàng tử: Nguyễn Phúc Đởm, Nguyễn Phúc Đài (Kiến An vương), Nguyễn Phúc Hiệu (mất sớm), Nguyễn Phúc Thấn (Thiệu Hoà thân vương). Ngoài 6 người con với hai vợ chính đã kể trên, Gia Long còn 7 người con trai với bà khác, tổng cộng 13 Hoàng tử, 18 Công chúa.
Câu hỏi:
1. Tóm tắt quá trình lên ngôi của vua Gia Long.
2. Nêu các chính sách đối ngoại của triều Nguyễn thời Gia Long. Có nhận xét gì về chính sách này?
3. Nêu nhận xét về cái chết của hai công thần Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường.
4. Suy nghĩ của bản thân về lời dặn dò của Gia Long trước khi băng hà.
5. Đánh giá về vai trò của Gia Long trong lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ XIX

MINH MẠNG* HOÀNG ĐẾ (1820-1840)
Niên hiệu: Minh Mạng
Vua huý là Hiệu, lại có tên là Đởm, sinh ngày 23 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789), là con thứ tư của vua Gia Long. Tháng Giêng năm Canh Thìn (1820), Hoàng Thái từ Đởm lên ngôi vua, đặt quốc hiệu là Đại Nam, niên hiệu là Minh Mạng, khi ấy 30 tuổi.
Minh_Mang.gif
Chân dung vua Minh Mạng
Minh Mạng có tư chất thông minh, hiếu học, năng động và quyết đoán. Từ khi lên ngôi, ông ra coi chầu rất sớm, xem xét mọi việc trong triều và tự tay "châu phê" rồi mới cho thi hành-thuật ngữ "châu phê" bắt đầu có từ đây. Minh Mạng muốn quan lại các cấp phải có đức độ và năng lực, nên khi mới lên ngôi đã đặt ra lệ mà về sau khó ai thực hiện nổi. Quan lại ở thành, dinh, trấn, văn từ Hiệp trấn, Cai bạ, Ký lục, Tham hiệp; võ từ Thống quản cơ đến Phó vệ uý,... ai được thăng hiệu, bổ nhiệm,... đều cho đến kinh gặp vua trước khi nhậm chức để nhà vua hỏi han công việc, kiểm tra năng lực và khuyên bảo.
Minh Mạng là người ham hiểu biết, thường khi tan chầu, nhà vua cho đòi một vài đại thần tới bàn các việc kinh lý, hỏi sự tích thời xưa, danh nhân và các phong tục nước xa lạ. Nhiều đêm vua thắp đèn xem tấu chương, sớ đến canh hai canh ba mới nghỉ. Vua thường nói với triều thần:
- Lòng người, ai chả muốn yên, hay gì sinh sự để thay đổi luôn. Những lúc trẻ khoẻ mà không biết sửa sang mọi việc, đến lúc già yếu mới mỏi mệt, mong làm được gì nữa. Bởi thế trẫm không dám lười biếng bất kỳ lúc nào.
Là người tinh thông Nho học, sùng đạo Khổng Tử, Minh Mạng rất quan tâm đến học hành khoa cử, tuyển chọn nhân tài. Dựng Quốc Tử Giám, đặt chức Tế tửu và Tư nghiệp năm Tân Tị (1821), mở lại năm năm một khoa thi rút xuống còn ba năm: các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu thì thi Hương; các năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thi Hội, thi Đình. Vua còn cho đặt Đốc học ở Gia Định thành, dùng thầy giáo người Nghệ An là Nguyễn Trọng Vũ làm Phó Đốc học để khuyến khích việc học tập ở Nam Bộ. Minh Mạng thường nói:
- Người Gia Định vốn tính trung nghĩa nhưng ít học, do đó hay tức khí với nhau. Nếu được bậc đại nho túc học làm thầy dạy bảo cho điển lễ nhượng thì dễ hoá làm thiện mà thành tài sẽ nhiều đó.
Thời đó Gia Định chỉ có Trịnh Hoài Đức là người có học, được vua rất tin dùng, cho làm Hiệp biên Đại học sĩ, làm Thượng thư bộ Lại kiêm Thượng thư bộ Binh.
Trinh_Hoai_Duc.jpg
Trịnh Hoài Đức
Minh Mạng cho lập Quốc sử quán để biên soạn lịch sử dân tộc và các triều đại.
Trong việc dùng người, Minh Mạng đặc biệt chú trọng đến học thức. Năm Nhâm Ngọ (1822), Lê Văn Liêm được Thự tiền quân Trần Văn Năng tiến cử làm Tri phủ Ninh Giang, bộ Lại đưa vào bệ kiến, vua xét hỏi, Liêm đáp là ít học. Vua nói:
- Tri phủ giữ chính lệnh trong một phủ, không học thì không rõ luật lệ, lỡ khi xử đoán sai thì pháp luật khó dung, như thế là làm hại chứ không phải là yêu.
Thế là Liêm không được bổ dụng.
Nhà vua đã có lần công bố thuật dùng nười rất chí lý:
- Nay dùng người không ngoài hai đường là khoa mục và tiến cử, người giỏi khoa mục không chắc đã giỏi chính sự. Nhưng cũng chưa có ai học nuôi con rồi sau mới lấy chồng. Chính sự cốt ở nuôi dân, muốn yêu dân thì đừng phiền nhiễu dân; làm quan phủ, huyện không tham không nhiễu thì chính sự có khó gì đâu! nếu không thế thì văn học dẫu nhiều há dùng làm gì?
Chế độ tiền lương cho quan lại cũng được quy định khá chi tiết, từ nhánh Nhất phẩm đến tòng Cửu phẩm cách nhau chừng 18 bậc. Ngoài ra, Tri phủ, đồng Tri phủ, Tri huyện, Tri châu còn có khoản tiền "dưỡng liêm" từ 20 đến 50 quan tuỳ theo cương vị khác nhau, nhà vua nghiêm trị bọn quan lại tham nhũng. Có viên quan không dùng thước để gạt thăng đong thóc thuế, thường dùng tay để dễ bề lạm dụng, biết chuyện nahf vua lập tức sai chặt tay tên lại đó.
Philong_Minh_Mang_CdM.jpg
Đồng Phi long thời Minh Mạng
Minh_Mạng_thông_bảo,_1820-1840_AD_-_Museum_of_Vietnamese_History_-_Ho_Chi_Minh_City_-_DSC05936.jpg
Tiền Minh Mạng thông bảo

Minh Mạng rất quan tâm đến võ bị, đặc biệt là thuỷ quân. Ngay những năm đầu lên ngôi, vua đã sai người tìm hiểu cách đóng tàu của châu Âu và quyết tâm làm cho người Việt tự đóng được tàu theo kiểu Tây Âu, biết lái tàu vượt đại dương. Các quy chế luyện tập thuỷ quân, khảo sát vị trí bờ biển, hải cảng cũng được chú ý. Hằng năm, nhà vua thường phái nhiều tàu vượt biển sang các nước và các cảng lớn vùng biển Đông như Jakarta, Singapore, Malaysia,.. để bán hàng, mua hàng, luyện tập đi biển và xem xét tình hình các nước. Minh Mạng đã cho hoàn chỉnh hệ thống đê điều ở Bắc Bộ, lập hai huyện mới là Kim Sơn (Ninh Bình) và Tiền Hải (Thái Bình). Công cuộc khai hoang và thuỷ lợi ở Nam Bộ cũng được đẩy mạnh. Minh Mạng đã thử nghiệm giải pháp phá bỏ đê phía nam Hà Nội, đào sông thoát lũ Cửu An (Hưng Yên)...
Trên cơ sở đã có từ thời Gia Long, nay Minh Mạng củng cố và hoàn thiện hơn bộ máy quản lý đất nước, đặt nội các trong cung điện để khi cần, vua hỏi han và làm giấy tờ: biểu sắc, chế cáo năm Kỷ Sửu (1829); đặt Cơ mật viện năm Giáp Ngọ (1834) dùng 4 đại thần, đeo kim bài để phân biệt chức vị. Cơ mật viện cùng vua bàn bạc và quyết định những việc quan trọng nhất. Năm Tân Mão (1831), Minh Mạng cho tiến hành cải cách hành chính trên quy mô lớn, chia cả nước ra làm 31 tỉnh. Từ đây, tỉnh là đơn vị hành chính thống nhất trong cả nước có cương vực và địa hình khá hợp lý. Mỗi tỉnh có Tổng đốc, Tuần phủ, Bố chính, Án sát để trông coi công việc. Các châu miền núi dựa theo đơn vị hành chính thống nhaats với miền xuôi.
Tuy vậy dưới thời Minh Mạng, nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra với nhiều loại khác nhau. Nông dân nghèo nổi lên chống quan lại nhũng nhiễu, hà khắc như Phan Bá Vành ở đồng bằng Bác Bộ. Cựu thần nhà Lê như Lê Duy Lương nổi lên chống lại triều đình; các tù trưởng người thiểu số như Nông Văn Vân hoặc họ Quách ở vùng Hoà Bình, Thanh Hoá... Minh Mạng phải cử Trương Minh Giảng, Tạ Quang Cự, Lê Văn Đức, Nguyễn Công Trứ cầm quân đi dẹp loạn.
Mặc dù có di chiếu của vua cha: "Phải cẩn thận, chớ nên gây hấn ngoài biên" và sớ của Thượng thư bộ Binh Nguyễn Tường Vân trong di biểu trước khi ông chết tháng Chín năm Canh Thìn (1802) rằng: "Đến như nước Xiêm La (Thái Lan), nếu có lỗi nhỏ cũng cần bỏ qua để cùng nhau làm đạo lớn, thì không những là báo nghĩa Tiên đế dừng chân ở đấy mấy năm, mà còn tránh khỏi mối lo trăm đời của kẻ bề tôi lớn ngoài biên", Minh Mạng vẫn đưa quân ra quán biên giới. Năm Quý Tỵ (1833), Lê Văn Khôi khởi binh ở Gia Định chống lại triều đình. Khôi sai người sang cầu cứu, người Xiêm đem quân thuỷ bộ sang giúp Lê Văn Khôi đánh lại quân Nguyễn. Trương Minh Giảng, Nguyễn Xuân đại phá được quân Xiêm, đuổi ra khỏi bờ cõi. Không dừng lại ở đó, năm Ất Mùi (1835), nhà Nguyễn còn tiến quân sang tận Nam Vang (Phnôm Pênh), bắt vua Chân Lạp là Nặc Ông Châu đổi Chân Lạp thành Trấn Tây để cai quản. Nhà Nguyễn chiếm Chân Lạp khoảng 5 năm, khi Minh Mạng mất, quan quân đã bỏ Trấn Tây, rút về An Giang.
Về đối ngoại, Minh Mạng đặc biệt chú ý thần phục nhà Thanh. Lễ thụ phong của nhà vua ở thành Thăng Long được tổ chức cực kì trọng thể. Ngày 10 tháng Mười năm Tân Tỵ (1821), nhà vua dẫn đầu một đoàn tuỳ tùng có 1782 người gồm hoàng thân, bá quan văn võ và 5150 lính (tổng cộng 6932 người) rời Phú Xuân ra Thăng Long để nhân sắc phong của "thiên triều". hành trình kéo dài 33 ngày đêm. Đoàn người đông đúc đó phải nằm chờ ở Thăng Long mãi từ khi sứ Thanh đến và xong lễ. Thủ tục đón tiếp và chiêu đãi sứ Thanh diễn ra hết sức chu đáo và long trọng.
Đối với các nước phương Tây, nhà vua lại tỏ ra lạng nhạt và nghi kị. Chính sách thụ động như vậy đã kìm hãm sự phát triển của đát nước.
Minh Mạng còn là người được ghi nhớ nhiều bởi phép đặt tên đôi rất độc đáo.
Gia Long đã quy định cách viết tộc phả nhà Nguyễn: con cháu Nguyễn Hoàng vào Năm thì chép theo họ tôn thất Nguyễn Phúc; con cháu của Nguyễn Hoàng ở Bắc và các chi trước Nguyễn Hoàng ở Thanh Hoá thì thuộc về công tính họ Nguyễn Hựu. Năm Quý Mùi (1823), Minh Mạng đã nghĩ đến chuyện tránh tranh chấp trong nội bộ hoàng gia, đảm bảo đế nghiệp lâu dài cho mình và con cháu. Vua đã tìm ra phép đặt tên đôi khá chặt chẽ và tế nhị dễ chấp nhận đối với các hoàng tử ruột thịt. Vua đã thảo ra 11 bài thơ, trong đó có bài "Đế hệ thi" và 10 bài "Phiên hệ thi". Mỗi bài 20 chữ, chữ có nghĩa tốt và uyên bác dùng làm tiền từ* cho 20 đời nối tiếp nhau sau kể từ Minh Mạng.
"Đế hệ thi" có 20 chữ sau:
Miên, Hường, Ưng, Bửu*, Vĩnh
Bảo, Quý, Định, Long, Tường
Hiền, Năng, Kham, Kê, Thuật
Thế, Thoại, Quốc, Gia, Xương

Theo phép này, tất cả con trai Minh Mạng đều phải có chữ tiền là từ "Miên", thêm sau do tên gia đình đặt: đến lượt mình, mọi con trai của thế hệ "Miên" đều phải có tên bắt đầu bằng "Hường"; đến lượt con trai của "Hường" phải có tiền từ "Ưng";... cứ thế đến hết 20 chữ của bài thơ "Đế hệ". 10 bài "Phiên hệ" cũng theo quy tắc trên. Mục đích việc này nhằm từ đây chia các Hoàng tử vua Gia Long ra làm hai hệ: đế hệ và phiên hệ. Đế hệ được kế thừa đế nghiệp, phiên hệ là bờ rào bao quanh bảo vệ đế hệ. Khi ban bố cách đặt tên này, Minh Mạng nói:
- Trẫm không dám so sánh với nhà Chu* xưa ở Trung Nguyên bói năm được 700 năm*, bói đời được 30 đời. Nhờ các tiên đế ta tích nhân đức, chính sự ân huệ tốt họ Nguyễn Phúc được cội sâu gốc bền, nghiệp lớn tốt thịnh. Trẫm chỉ giơ tay lên trán cầu trời cho từ nay về sau, con cháu ta nhận nối cơ đồ lớn, được hưởng 500 năm, tức là hơn 20 đời, chẳng dám mong nhiều hơn!
Cùng năm ban hành phép đặt tên này, 23 Hoàng tử của vua Minh Mạng tất thảy được đổi tên lấy Miên đứng đầu: Miên Tông, Miên Định, Miên Nghi, Miên Hoàng, Miên An,...
Từ đó trở đi, hễ sinh thêm Hoàng tử, đầy 100 ngày là phải làm lễ "bảo kiến" (ẵm đến ra mắt vua), chiếu theo "Đế hệ thi" mà cho tên. Có tên mới chấm dứt dùng tên cũ.
Triều Nguyễn đã thực hiện "Đế hệ thi" đến chữ thứ 5-"Vĩnh" thì bị cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 lật đổ.
Minh Mạng có rất nhiều vợ, số chính xác thì chưa thấy tài liệu nào nói đến, nhưng căn cứ vào câu thơ của Minh Mạng "Nhất dạ ngũ giao, tam hữu dậng" (một đêm ngủ với 5 vợ thì 3 bà vợ có thai) và theo sử sách, nhân có năm hạn hán, nhà vua cho rằng trong thâm cung có qua nhiều cung nữ khí uất tắc mà nên, nhà vua bèn cho thả ra 100 người. Với sinh hoạt như vậy và một lúc dám thải ra 100 người thì rõ ràng số cung nữ thường xuyên ít nhất cũng gấp bốn năm lần! Số liệu chính xác về số con của Minh Mạng là 78 hoàng nam, 64 hoàng nữ, tổng cộng 142 người.
Trị vì 21 năm, Minh Mạng lo toan công việc thường như 1 ngày, sức làm việc phải nói là đáng ngạc nhiên. Mọi phê bảo, dụ chỉ, chế cáo đều tự tay vua viết ra với số lượng không nhỏ. Không những thế, khi rỗi rãi, ông còn làm thơ, viết văn. Vua còn để lại 5 tập thơ và 2 tập văn.
Tháng Mười năm Canh Tý (1840), ốm nặng, vua cho vời Hoàng tử, các thân công và Cơ mật viện Đại thần Trương Đăng Quế vào hầu. Vua dụ Trương Đăng Quế rằng:
- Hoàng tử Trường Khánh Công, lấy về ngôi thứ là hàng trưởng, lấy về đức, về tuổi, nên nối ngôi nghiệp lớn. Ngươi nên hết lòng hết sức giúp rập, hễ việc gì chưa hợp lệ, ngươi nên dẫn lười nói của ta mà can gián.
Xong, nói với Hoàng tử trưởng:
- Trương Đăng Quế thờ ta đến nay đã 21 năm, trọn đạo làm tôi, một lòng công trung, bày mưu dưới trướng, ra sức giúp việc ngoài biên, ngươi nên đãi ngộ một cách trọng hậu, hễ nói gì phải nghe, bày mưu kế gì phải theo.
Nói rồi vua mất, thọ 50 tuổi. Miếu hiệu là Thánh Tổ.
Chú giải
*Minh Mạng: có nơi gọi là Minh Mệnh
*Bửu: nhiều tài liệu ghi là Bảo
*Chu: nhà Chu của Chu Văn Vương Cơ Phát, không phải nhà Chu của Võ Tắc Thiên.
*700 năm: theo truyện "Phong thần diễn nghĩa" của tác giả Hứa Trọng Lâm và Lục Tây Ninh, Cơ Xương (cha của Cơ Phát) kéo xe cho Khương Tử Nha đi được 800 bước, tức nhà Chu tồn tại 800 năm.
 
Last edited by a moderator:

_haphuong36_

Cựu TMod Sử
Thành viên
15 Tháng mười 2019
995
2
1,484
151
17
Thái Bình
THPT Bắc Duyên Hà
THIỆU TRỊ HOÀNG ĐẾ (1841-1847)
Niên hiệu: Thiệu Trị
Trong số rất nhiều vợ của Minh Mạng, có bà vợ cả họ Hồ, con gái lớn của công thần Hồ Văn Bôi, quê ở huyện Bình An, tỉnh Biên Hoà. Hồ Văn Bôi đã có công theo giúp vua Gia Long từ buổi đầu. Gia Long và bà Nhị phi đã chọn kĩ và cưới cô gái họ Hồ về làm vợ Hoàng tử Đởm. Là người trang kính, chín chắn, thận trọng, hiền hoà, trinh nhất,... được Minh Mạng hết lòng kính yêu, phong là Thuận đức Thần phi. Bà sinh Hoàng thái tử Dong được 13 ngày thì mất. Hoàng tử Dong được các cung nữ khác nuôi nấng. Năm Quý Mùi (1823), theo phép đặt tên của Đế hệ, Hoàng tử Dong có tên mới là Miên Tông. Miên Tông là con trưởng trong số 78 Hoàng tử của Minh Mạng nên được nối ngôi.
ktt_1.4_thieu_tri1_kienthuc_kczq.jpg
Vua Thiệu Trị trong Hoàng bào
Tháng Giêng năm Tân Sửu (1841), Miên Tông lên ngôi ở điện Thái Hoà, đặt niên hiệu là Thiệu Trị, vừa đúng 34 tuổi.
Thiệu Trị hiền hoà, không hay bày việc. Vả chăng, mọi quy chế đã được sắp đặt khá quy củ từ thời Minh Mạng, Thiệu Trị giữ nếp cũ, chỉ răm rắp làm theo lời di huấn của cha thôi. Bày tôi từng giúp Minh Mạng nay vẫn là vây cánh, tay chân của Thiệu Trị như Trương Đăng Quế, Lê Văn Đức, Doãn Uốn, Võ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương, Lâm Duy Tiếp,... Thời kỳ cầm quyền ngắn ngủi của Thiệu Trị chỉ đủ để giải quyết một số hậu quả để lại từ thời Minh Mạng.
Gold_lang_Thieu_Tri_CdM.jpg
Đồng tiền vàng thời Thiệu Trị
Thiệu_Trị_thông_bảo,_1841-1847_AD_-_Museum_of_Vietnamese_History_-_Ho_Chi_Minh_City_-_DSC05937.jpg
Tiền Thiệu Trị thông bảo

Thứ nhất là khắc phục hậu quả của giải pháp bỏ đê ở Bắc Bộ. Vào năm Quý Tỵ (1833), sau nhiều cố gắng củng cố và hoàn thiện hệ thống đê điều ở Bắc Bộ mà vẫn lụt lội, Minh Mạng mạnh dạn áp dụng giải pháp "đào sông thay đê". Vua cho phá bỏ đê điều vùng trũng phía nam Hà Nội, khơi đào sông thoát lũ vùng Hải Dương, Hưng Yên nhưng vô hiệu. Theo ý nguyện thần dân địa phương, Thiệu Trị lại cho đắp đê, đập chắn ngang sông Cửa An.
Việc thứ hai là giải quyết vấn đề Chân Lạp. Cuối đời Minh Mạng, thành Trấn Tây là mối lo cần giải quyết. Trương Minh Giảng, Nguyên Tiến Lâm, Lê Văn Đức, Nguyễn Công Trứ... đem quân đánh dẹp mãi không yên. Vì thế ngay năm đầu lên ngôi, triều quan như Tạ Quang Cự tâu xin bỏ đất Chân Lạp, rút chân về giữ An Giang. Vua nghe theo, xuống chiếu bãi binh. Trương Minh Giảng về đến An Giang thì mất. Tháng Sáu năm Ất Tỵ (1845), Chân Lạp bị Xiêm chiếm đóng, đáp lời cầu viện của Chân Lạp, triều đình lại cử binh sang buộc tướng Xiêm là Chất Tri ký hoà ước rồi hai nước cùng bãi binh. Nguyễn Tri Phương, Doãn Uốn rút quân về đóng ở Trấn Tây. Năm Bính Ngọ (1846), Nặc Ông Đơn sai sứ sang dâng biểu và cống phẩm. Tháng Hai năm Đinh Mùi (1847), triều Nguyễn phong Nặc Ông Đơn là Cao Miên quốc vương và Mỹ Lâm quận chúa, Cao Miên quận chúa*. Lại xuống chiếu cho quân thứ ở Trấn Tây rút về An Giang. Từ đó, Chân Lạp lại có vua và phía Tây Nam bắt đầu yên dần.
Vấn đề thứ ba là quan hệ với phương Tây. Khi Thiệu Trị lên nắm quyền thì việc cấm đạo Thiên Chúa có nguôi đi ít nhiều. Một số giáo sĩ bị bắt giam từ trước tại Huế, bị kết án tử hình nay được tự do nhờ sự can thiệp của Hải quân Pháp. Năm Đinh Mùi (1847), Pháp sai một Đại tá, một Trung tá đem hai chiến thuyền vào Đà Nẵng xin bỏ chỉ dụ cấm đạo và cho tự do tín ngưỡng. Đang trên bàn thương lượng thì Pháp dùng đại bác bắn đắm tàu thuyền của Việt Nam neo đỗ bên cạnh rồi chạy ra biển. Trước sự kiện đó, Thiệu Trị vô cùng tức giận, ban thêm sắc dụ cấm người ngoại quốc giảng đạo và trị tội người trong nước đi đạo. Sau đó tháng Chín năm Đinh Mùi (1847), Thiệu Trị bị bệnh rồi mất , ở ngôi được 7 năm, thọ 41 tuổi, miếu hiệu là Hiến Tổ chương Hoàng đế. Ông có 54 người con (29 hoàng nam và 25 hoàng nữ).
*Chức quận chúa này khác với chức quận chúa bên Trung Hoa.
Thông tin thêm:
Cuộc thảm sát hàng loạt giáo sĩ phương Tây đã gây kinh động Hoàng hậu Pháp Eugenie, một người rất sùng đạo. Nghe theo lời vợ, Hoàng đế Napoléon III đã quyết định xâm lược Việt Nam.

 

_haphuong36_

Cựu TMod Sử
Thành viên
15 Tháng mười 2019
995
2
1,484
151
17
Thái Bình
THPT Bắc Duyên Hà
TỰ ĐỨC HOÀNG ĐẾ (1848-1883)
Niên hiệu: Tự Đức
Vua huý là Thì, tên đặt theo đế hệ là Hồng Nhậm, sinh ngày 25 tháng 8 năm Kỷ Sửu (1829), con thứ hai của Thiệu Trị. Mẹ ông họ Phạm, con gái Thượng thư bộ Lễ Phạm Đăng Hưng, người huyện Tân Hoà (Gia Định). Tháng Giêng năm Thiệu Trị thứ 3, năm Quý Mão (1843) thì 14 tuổi, được phong làm Phúc Tuy Công, lấy vợ là con gái Vũ Xuân Cẩm. Khi ấy, Yên Phong công Hồng Bảo tuy đã lớn nhưng là con của vợ thứ lại ít học, chỉ ham vui chơi. Ngược lại, Hồng Nhậm nhân hiếu, thông sáng và chăm học, được vua cha rất yêu quý, bảo có nhiều tính giống mình nên có ý truyền ngôi cho. Hồng Nhậm, vì thế thường được vua gọi vào chầu riêng để dạy bảo. Tháng 10 năm Đinh Mùi (1847), Hồng Nhậm lên ngôi ở điện Thái Hoà, lấy niên hiệu là Tự Đức lúc 19 tuổi. Vì cho con ít tuổi lên nối ngôi, nên Hồng Nhậm và Hồng Bảo tranh chấp nhau. Bảo thua, sau bị chết.
Vua_Tu_Duc.jpg
Chân dung vua Tự Đức
Tự Đức ốm yếu, phải luôn sống tại cung điện Huế, trừ mỗi năm 2 lần nghỉ hè và nghỉ đông ở cửa biển Thuận An. Suốt đời vua chỉ đi xa một chuyến, đó là dịp phò giá vua cha ra nhận lễ thụ phong của nhà Thanh ở Thăng Long năm 1842, khi đó mới 13 tuổi. Chính vì kém sức khoẻ nên khi lên ngôi, sứ thần sang nhà Thanh phải biện luận khó khăn để buộc sứ Thanh phải vào Phú Xuân làm lễ phong vương cho Tự Đức. Có những lần đích thân vua phải đứng làm chủ tế nhưng mệt lại phải sang Xuân Ngọ công Miên Định hoặc An Phong công Hồng Bảo làm thay. Cũng chính vì lý do trên mà vua ít sát dân tình, ngày càng trở nên quan liêu mệnh lệnh. Bù lại sự yếu kém sức khoẻ, Tự Đức lại rất thông minh và có tài văn học. Vua thích nghiền ngẫm kinh điển Nho giáo, xem sách đến khuya. Có thể nói Tự Đức là một trong những người uyên bác nhất thời đó và là môn đồ tích cực của Khổng học.
Lẽ dễ hiểu Tự Đức là người con rất có hiếu. Cũng mới lên nối ngôi, Tự Đức đã làm tang vua cha cực kì cẩn thận, trang trọng, tốn kém. Vua từng truyền phán: Sửa sang tang nghi là việc lớn, dẫu hợp cả tài lực của bốn bể năm châu cũng chưa dám cho là xa xỉ.
Vua cũng rất có hiếu với mẹ là Từ Dụ. Vua tự quy định ngày lẻ thì thiết triều, ngày chẵn vào chầu thăm mẹ. Như vậy, mỗi tháng vua ngự triều 15 lần, thăm mẹ 15 lần. Khi đến với mẹ sửa mình, nén hơi, quỳ xuống hỏi thăm sức khoẻ, rồi cùng mẹ bàn luận kinh sách và sự tích xưa nay, nhất là chính sự. Từ Dụ là người thuộc nhiều sử sách, biết nhiều chuyện cổ kim. Hễ mẹ nói gì là vua ghi ngay vào quyển sổ nhỏ gọi là "Từ huấn lục". Trải 36 năm ở ngôi, vua duy trì đều đặn nền nếp ấy, chỉ trừ lúc đau yếu. Chuyện kể rằng Tự Đức không thích gì hơn là đi săn để giải trí ngoài việc chính sự. Một hôm rảnh việc, vua đi săn tại vườn Thuận Trực gặp mưa lũ, không kịp về giỗ Thiệu Trị. Từ Dụ nóng ruột sai người đi đón. Thuyền ngự về đến bến, trời mưa to mà nhà vua liền ngồi kiệu trần đi thẳng vào cung lạy xin chịu tội. Từ Dụ ngồi xoay mặt vào trong không thèm nói nửa lời. Tự Đức lấy roi mây nâng lên trát kỷ rồi tự nằm xuống xin chịu đòn. Từ Dụ tha cho mới đứng dậy.
Hàng năm đến kì nghỉ ở Thuận An, Tự Đức hay đi cùng mẹ. Xem thế đủ biết bà mẹ có sức ảnh hưởng lớn đến chính sự của nhà vua!
HoangthaihauTuDu.jpg
Từ Dụ Thái hậu
Tự Đức có dáng vẻ một nho sĩ, không cao không thấp, trạc người bậc trung, hơi gầy, mặt hơi dài, cằm nhỏ, trán rộng, má thẳng, mũi cao mà tròn, hai con mắt tinh mà hiền. Vua thường mặc quần áo vàng, chít khăn vàng và đi giày cũng màu vàng , không ưa trang sức và cũng không muốn cung nữ đeo đồ nữ trang, chỉ lấy sự sạch sẽ làm đẹp. Nhà vua siêng năng việc chính sự, sáng 5 giờ đã tỉnh giấc, 6 giờ đã ra triều. Vì thế những buổi thiết triều các quan cũng phải dậy sớm, thắp đèn ăn cháo để vào triều cho kịp. Vua thường ngự triều tại điện Văn Minh, bên tả điện Cần Chánh. Quan văn ngồi trực bên tả vua, quan võ bên hữu vua. Khi vua ra, thái giám tuyên triệu triều quan, các quan đều mặc áo thụng xanh, đao bài ngà. Bái mạng xong, bộ nào có việc thì tâu quỹ tại chỗ. Cạnh quan tấu có quan Nội các ghi chép lời vua ban. Các buổi thiết triều kéo dài đến chín, mười giờ.
Lúc không thiết triều, vua làm việc ở chái đông điện Cần Chánh. Nhà vua ngồi làm việc một mình, có vài thị nữ đứng hầu, mài son, châm thuốc hoặc để truyền việc. Triều quan không được vào chỗ ngự toạ, mọi việc lớn nhỏ nhà vua tự xem. Phiếu sớ từ các nơi gửi về nội các, được xếp vào trát tấu sự, đưa cho giám, giám đưa cho nữ hầu dâng vua. Vua xem xong, giao lại cho nội các, nội các giữ bản chính có châu phê, châu điểm, sao lục gửi các bộ, nha thi hành. Những phiếu tấu có chữ "châu phê" của Tự Đức còn lại cho thấy nhà vua đã chữ tốt mà văn lại hay. Có nhiều tờ tâu, vua phê dài hơn cả lời tâu. Xem như thế, rõ ràng vua rất chăm chỉ và cẩn thận việc chính sự.
Tự Đức trị vì đất nước trong bối cảnh nhiều thử thách sống còn. Nhà vua thiếu tính quyết đoán, phải dựa vào triều thần bàn việc, mà triều thần tuy có người thanh liêm và có thực quyền như Trương Đăng Quế song lại bảo thủ. Trên thế giới, khoa học và công nghiệp đã phát triển mạnh mẽ, cạnh tranh buôn bán ngày càng gay gắt, thế mà đình thần quanh vua chỉ chăm lo việc văn chương, khéo nghề nghiên bút, bàn đến quốc sự thì lấy Nghiêu, Thuấn, Hạ, Thương, Chu xa xưa làm gương, tự vỗ ngực là văn minh, chê thiên hạ là ngoại di. Vì thế, Tự Đức cấm buôn bán ngày càng gay gắt hơn. Đến khi Gia Định đã rơi vào tay Pháp, nhà vua mới hỏi đến việc Phú Quốc cường bịnh thì triều thần không đưa ra được kế sách gì. Cũng có những người đã đi ra ngoài du học hoặc được tiếp xúc, có cách nhìn mới, muốn thay đổi, cải cách như Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ (1864), Nguyễn Trường Tộ (1866), Đinh Văn Điền (1868), Nguyễn Hiệp (1867), Lê Đĩnh (1881),... dâng điều trần xin nhà vua cải cách mọi mặt: chính trị, kinh tế, quân sự,... theo gương Nhật Bản, Thái Lan, Hương Cảng (Hồng Kông) và các nước phương Tây. Đình thần hoặc cho là nói càn, bàn nhảm hoặc cho là không hợp thời thế hoặc còn để hỏi xem các tỉnh và làm từ từ,...
Năm Mậu Dần (1878), xem báo "Hương Cảng tân văn", thấy bàn đến việc chấn hưng đất nước phải thông thương và chống lại bảo thủ, đúc súng, đóng tàu, cử người học tiếng nước ngoài, nhà vua muốn cho thi hành, bảo viện cơ mật xem xét rồi tâu lên. Viện cơ mật cho rằng thông thương, học tiếng, đóng tàu,... thật là cấp thiết nhưng người Tây phương làm dễ còn ta làm không được,... Hơn nữa muốn thay đổi tập quán tất phải dần dần, làm ngay một lũ, thực khó được như ý, rồi còn phải chờ kì tiến cống nhà Thanh năm tới, xem sao rồi liệu sau,... Tự Đức xem lời tâu, dụ rằng:
- Xét việc thì nên cẩn thận và suy nghĩ cho chín, nhưng cũng nên làm thế nào cho tiến bộ, chứ không tiến là thoái vậy!
Vua phê chuẩn việc học tiếng nước ngoài, sức cho làm ngay. Tháng Mười một năm Mậu Dần (1878), cùng với sứ bộ sang Xiêm (Thái Lan) có một số thanh niên do Hồ Khắc Hài dẫn đầu sang học tiếng Xiêm.
Nhận ra và làm đến lúc đó đã là quá chậm, thế nhưng quần thần vẫn chần chừ, ngại cải cách, nếu có làm lại dè dặt, nửa chừng. Triều đình chia thành hai phe: cách tân và bảo thủ. Người chủ trương cách tân dù rất kiên quyết nhưng trong điều kiện quá chênh lệch về lực lượng, nên cuối cùng bị thất bại.
Khi đất nước sa vào tay Pháp lại nảy sinh hai phe: chủ chiến và chủ hoà. Những người chủ chiến, phải chiến đấu trong điều kiện chênh lệch về lực lượng và vũ khí nên cuối cùng thất bại.
Năm Nhâm Ngọ (1882), triều đình cử Thượng thư bộ Hình Phạm Thận Duật đi sứ Thiên Tân (Trung Quốc) cầu viện nhà Thanh đánh Pháp. Trung Quốc đang bị các nước phương Tây xâu xé, chẳng những không cứu được mà còn muốn nhân dịp này chiếm các tỉnh phía Bắc nước ta. Ngày 16 tháng Sáu năm Quý Mùi (1883), Tự Đức mất, trị vì được 36 năm, thọ 55 tuổi, miếu hiệu là Dực Tôn Anh Hoàng đế. Triều đình Huế phải kí hoà ước Quý Mùi (1883) rồi hoà nước Pa-tơ-nốt (1885), đất nước bị chia làm 3 kỳ chịu sự bảo hộ của thực dân Pháp.
Tự Đức lấy vợ từ năm 14 - 15 tuổi và sau đó còn lấy thêm 103 vợ nữa, nhưng đến năm 35 tuổi vẫn chưa có con, mặc dù đã chạy chữa bằng mọi cách, cầu tự khắp đền chùa có tiếng trong nước, thậm chí nhà vua còn hạ cố lấy một phụ nữ đã qua một đời chồng, có con mà vẫn "vô hậu". Nhà vua phải nuôi lấy 3 người con các anh mình làm con nuôi: Ưng Chân, Ưng Kỷ và Ưng Đường.
Di chúc nhà vua viết: "Trẫm nuôi sẵn ba con, Ưng Chân cố nhiên là học lâu trường thành, chính danh đã lâu, nhưng mặt hơi có tật, giấu kín không rõ ràng, sợ sau không sáng, tính lại hiếu dâm, cũng rất không tốt chưa chắc đương nổi việc lớn. Nhưng nước cần có vua nhiều tuổi, đương lúc khó khăn này không dùng hắn thì dùng ai? Sau khi Trẫm muôn tuổi, nên cho Quốc công Ưng Chân nối nghiệp." Về sau, Trần Tiến Thành, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết và các phụ chính đại thần mưu bỏ vua này lập vua khác gây ra thảm kịch trong triều Nguyễn sau khi Tự Đức mất.

(Nguồn: Sách Các Triều Đại Việt Nam - Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng)
 
Top Bottom