Văn Tổng hợp đề ôn Ngữ Văn năm 2018-2019 của thầy Trịnh Quỳnh

xuanle17

Cựu Mod Ngữ Văn
Thành viên
14 Tháng chín 2018
804
1,014
181
25
Thừa Thiên Huế
Đh sư phạm huế
[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

ĐỀ SỐ 1
ĐỀ SỐ 2
ĐỀ SỐ 3

ĐỀ SỐ 4
Phần I. Đọc hiểu (3,0 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Một món nợ
khó bề trang trải
Việt Bắc
cho ta vay
địa thế!
Vay từ
bó củi
nắm tên
Vay từ
những hang sâu
núi hiểm
Cả
trám bùi
măng đắng
đã nuôi ta
Ta mắc nợ
những rừng sim bát ngát
Nợ
bản Mường heo hút
chiều sương
Nợ
củ khoai môn
nợ chim muông
nương rẫy
Nợ
tre vầu
bưng bít
rừng sâu
Nợ con suối
dù trong
dù đục
Nợ
những người
đã ngã
không tên
Ôi
thế kỷ
muôn quên
ngàn nhớ!
Nợ này
đâu dễ trả
mà quên!
Đi!
Tất cả!
Dù quen tay vỗ nợ
Cũng chớ bao giờ
vỗ nợ
NHÂN DÂN!
(Bài thơ Việt Bắc, Trần Dần, NXB Hội nhà văn, 1990)​
Câu 1. Xác định thể thơ của văn bản?
Câu 2. Nêu biện pháp tu từ nổi bật trong đoạn thơ? Biện pháp tu từ đó có tác dụng như thế nào trong việc thể hiện cảm xúc của nhân vật trữ tình.
Câu 3. Cảm nhận ngắn của anh/chị về hình ảnh Việt Bắc và Nhân Dân trong đoạn thơ?
Câu 4. Bài học ý nghĩa mà anh/chị rút ra được qua ý thơ của tác giả:
Dù quen tay vỗ nợ
Cũng chớ bao giờ
vỗ nợ
NHÂN DÂN!

Phần II. Làm văn (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Lấy vay và nợ làm đề tài, hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ bày tỏ suy nghĩ của anh/chị về vấn đề đó trong cuộc sống.
Câu 2. (5,0 điểm)
Nhà văn Ernest Hemingway đã từng chia sẻ: “Con người không phải lúc nào cũng coi thiên nhiên là kẻ thù. Con người và thiên nhiên có thể vừa là bạn vừa là đối thủ.”
Cảm nhận của anh/chị về hai nét tính cách hung bạo và trữ tình của dòng Sông Đà trong đoạn văn sau và làm rõ ý kiến trên.
… Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này. Mặt sông rung tít lên như tuyếc bin thủy điện nơi đáy hầm đập. Mặt sông trắng xóa càng làm bật rõ lên những hòn những tảng mới trông tưởng như nó đứng nó ngồi nó nằm tùy theo sở thích tự động của đá to đá bé. Nhưng hình như Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông.

Con sông Đà gợi cảm. Đối với mỗi người, Sông Đà lại gợi một cách. Đã có lần tôi nhìn Sông Đà như một cố nhân. Chuyến ấy ở rừng đi núi cũng đã hơi lâu, đã thấy thèm chố thoáng. Mải bám gót anh liên lạc, quên đi mất là mình sắp đổ ra Sông Đà. Xuống một cái dốc núi, trước mắt thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy. Tôi nhìn cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Bờ sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà. Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra Sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân, mặc dầu người cố nhân ấy mình biết là lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy.
(Trích Người lái đò sông Đà, Ngữ văn 12, tập 1, NXB Giáo dục 2015)
ĐÁP ÁN THAM KHẢO

I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Câu 1: Thể thơ của văn bản: tự do
Câu 2: Biện pháp tu từ: điệp từ nợ, vay
Tác dụng nêu bật cảm xúc của nhân vật trữ tình: nhắc nhở không quên trăn trở trước những ân tình Cách mạng, mong muốn được đền đáp, trang trải món nợ ân tình của Việt Bắc
Câu 3: Đảm bảo các ý cơ bản:
+ Thiên nhiên Việt Bắc vừa hùng vĩ, hoang vi mà trữ tình nuôi dưỡng tâm hồn và ý chí con người
+ Nhân Dân – con người Việt Bắc giản dị mà chân thành, gian khó nhưng giàu quyết tâm, gắn bó với cán bộ Cách mạng, sẵn sàng hi sinh vì Cách mạng.
Câu 4: rút ra một số bài học, dưới đây là một số gợi ý:
+ Không bao giờ được lãng quên và phụ lại công lao của Nhân Dân.
+ Nhân Dân là cội nguồn Cách mạng là lực lượng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, dựng xây đất nước.
+ Mọi đường lối phát triển đất nước đều phải hướng tới lợi ích của Nhân Dân, vì Nhân Dân.

II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
Đoạn văn có bố cục rõ ràng, lôgic, có thể có nhiều ý khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý sau:
+ Vay là khi bạn gặp khó khăn, được người khác giúp đỡ. Sự giúp đỡ không chỉ là giá trị vật chất mà còn là những ân tình.
+ Nợ là sự ghi nhớ, đền đáp công ơn của người khác dành cho mình.
+ Mỗi người đều được thừa hưởng công ơn của người đi trước, là kết quả vật chất, tinh thần của thế hệ đi trước để lại.
+ Những người biết vay biết nợ ở cuộc đời là những người có chữ tín, trung nghĩa, không quên công ơn cội nguồn.
+ Xuất phát từ truyền thống uống nước nhớ nguồn, chuẩn mực đạo đức của con người.
Câu 2 (5,0 điểm)
1. Mở bài
– Giới thiệu vấn đề nghị luận
Bút kí là một thể loại được tạo nên từ công sức tìm tòi, nghiên cứu dựa trên các tài liệu phong phú. Nó thể hiện vốn sống và tầm hiểu biết sâu rông của nhà văn. Nó đem đến cho người đọc những hiểu biết phong phú về các đặc điểm, tính chất của đối tượng được đề cập... Nhắc đến bút kí người ta không thể không nhắc đến đỉnh cao thể kí với “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân.
– Dẫn ra vấn đề cần nghị luận
Người lái đò sông Đà là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước say đắm, thiết tha của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kỳ vĩ, hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên. “Nói chuyện với người lái đò, như càng lai láng thêm cái lòng muốn đề thơ vào sông nước”.
Hai đoạn văn dưới đây còn cho thấy công phu lao động khó nhọc cùng sự tài hoa, uyên bác của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân trong việc dùng chữ nghĩa để tái tạo những nét tâm hồn đối lập mà thống nhất của thiên nhiên tạo hóa. Như cách nói của nhà văn Ernest Hemingway: “Con người không phải lúc nào cũng coi thiên nhiên là kẻ thù. Con người và thiên nhiên có thể vừa là bạn vừa là đối thủ.”
2. Thân bài
2.1. Khái quát chung
- Nguyễn Tuân (1910 – 1987) quê ở Hà Nội, xuất thân trong một gia đình nhà nho khi Hán học đã tàn. Nguyễn Tuân cầm bút từ khoảng đầu những năm 1930, nổi tiếng từ 1938 với những tác phẩm có phong cách độc đáo. Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Tuân nhiệt tình tham gia cách mạng và kháng chiến, trở thành một cây bút tiêu biểu của nền văn học mới.
Nguyễn Tuân để lại một sự nghiệp văn học phong phú với những trang viết độc đáo và đầy tài hoa.
- Tuỳ bút Người lái đò sông Đà rút từ tập tuỳ bút Sông Đà (1960), thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc xa xôi, rộng lớn.
2.2 Cảm nhận về đoạn 1
- Vẻ đẹp hung dữ của sông Đà qua tiếng nước thác
+ Nguyễn Tuân nhìn con Sông Đà như một người có cá tính, có linh hồn và có cả tâm trạng, lúc “ặc ặc giận dữ”, lúc “oán trách”, lúc “van xin”, rồi lại như khiêu khích, giọng gằn và chế nhạo. Giọng điệu đa dạng, kì bí, không lặp lại của sông Đà trong một khuông nhạc dữ dội. Mỗi khoảnh khắc lắng tai nghe lại có những thanh âm khác nhau. Tác giả còn tạo liên tưởng như một cuộc đối thoại của con người trong một cuộc chiến đầy áp đảo của thế lực thiên nhiên hoang dã đang áp đảo một đối tượng nhỏ bé nào đó. Nghệ thuật nhân hóa đã khiến thác nước sông Đà thực sự trở thành một sinh thể sống đang giận dữ, gầm gào, đe dọa con người ngay cả khi nó chưa xuất hiện. Hệ thống những từ ngữ miêu tả âm thanh theo những cung bậc tăng dần cả về sắc thái cảm xúc và âm lượng để vừa miêu tả sống động sự đe dọa hung bạo của dòng sông.
+ Nhà văn sử dụng những liên tưởng độc đáo: tiếng thác (rống) – tiếng trâu mộng (lồng lộn) – tiếng rừng lửa (gầm thét). Âm thanh thác được động vật hóa thành tiếng gầm “trâu mộng”, lấy thác lửa (hỏa) để liên tưởng với rừng lửa cháy rừng rực để tạo ra một bất ngờ thẩm mĩ. Từ đó tăng cường các cảm giác của người đọc, khơi gợi tưởng tượng về sức mạnh hoang dã của thiên nhiên như một trận động rừng, động đất hay nạn núi lửa thời tiền sử.
Nguyễn Tuân còn chạm bút tới cái hút nước một lần nữa: “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. Hai chữ “ặc ặc” mô phỏng rất tài thứ âm thanh quái vật, khiến sông Đà như loài thủy quái bị bóp cổ đang quằn quại.
- Vẻ đẹp hùng vĩ dữ dội của sông Đà qua thạch trận bờ sông:
+Sông Đà “bày thạch trận trên sông”. Sông Đà còn lắm mưu nhiều kế bày bao nhiêu mẹo lược và sự nham hiểm để sẵn sàng bóp chết con người. Bằng thủ pháp nhân hóa, người đọc nhận ra từng sắc diện người trong những hình thù đá vô tri. Nguyễn Tuân đã dùng sức mạnh điêu khắc của ngôn từ để thổi hồn vào từng thớ đá: "Cả một chân trời đá mặt hòn nào trông cũng "ngỗ ngược", "nhăn nhúm", "méo mó" -> Những hòn đá vô tri vô giác nhưng qua cái nhìn của Nguyễn Tuân chúng mang vẻ du côn của thiên nhiên hoang dại và hung dữ với ba trùng vi thạch trận.
+ Tác giả vận dụng kiến thức của nhiều ngành nhiều lĩnh vực để khắc họa khung cảnh đối đầu giữa Sông Đà và ông lái đò: lịch sử, địa lí, quân sự, võ thuật, điện ảnh, hội họa, điêu khắc, âm nhạc… Những kiến thức liên ngành đa dạng ấy tạo bề dày uyên bác trong vốn tri thức của nhà văn, nâng cho đôi cánh tài hoa bay bổng.
Con sông Đà hung bạo, tàn ác không khác gì "kẻ thù số một của con người". Nhưng cũng chính từ hình ảnh con sông ấy lại là kẻ tôn vinh tài năng nghệ thuật tài hoa, tài tử và cực kì uyên bác của một ngòi bút số một về thể loại tùy bút
2.3 Cảm nhận về đoạn 2
- Vẻ đẹp gợi cảm của sông Đà:
- Trong niềm yêu nhớ của Nguyễn Tuân, sông Đà “gợi cảm” như một “cố nhân”. Hai chữ “cố nhân” vừa là hình ảnh nhân hóa dòng sông như một người bạn cũ xa nhớ gần yêu, vừa đưa đến cho dòng sông chút vương vấn, cổ kính, xưa cũ của Đường thi.
- Đoạn văn sau đó tràn ngập những cấu trúc so sánh đặc sắc để miêu tả dòng sông Đà gợi cảm và trước hết là để bộc lộ cảm xúc của con người khi sắp gặp lại dòng sông. Nhìn dòng sông thấy “loang loáng như trẻ con chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy” là cái nhìn của một người chưa ra tới cửa rừng, mới chỉ nhìn thấy dòng sông lấp lóa nắng thấp thoáng ẩn hiện giữa những vạt cây mà đã háo hức, bồn chồn, đã vội vàng, khao khát...
- Khi liên tưởng mặt sông giống như “cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi”, Nguyễn Tuân đã đem đến cho sông Đà vẻ lãng mạn của hoa khói, sự trong sáng rực rỡ của sắc xuân, tỏa ra từ câu thơ vời vợi nhớ nhung được coi là “thiên cổ lệ cú” của Lý Bạch: “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Liên tưởng của nhà văn đã làm xao xuyến những tâm hồn chưa hề nguôi nỗi tiếc nuối nhớ nhung với những phong vị Đường thi cổ điển, để rồi nỗi xao xuyến ấy mơ hồ lan tỏa trên dòng sông gợi cảm, khiến sông Đà không chỉ chảy trong không gian, mà như còn tha thiết trong dòng thời gian miên viễn xa xăm của Đường thi.
- Sau đó là một câu văn chỉ nối tiếp các chủ ngữ: “Bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà”. Hai chữ “sông Đà” điệp lại cuối mỗi vế câu đẳng lập như nhịp lên niềm say mê phấn khích, như nhân lên những khoảng không gian phóng khoáng của bến bãi Đà giang, tạo cảm giác như nhà văn đang hân hoan ngợp giữa không gian sông Đà mênh mông để rồi say đắm òa vào những không gian ấy, không kịp bình tĩnh quan sát bằng lý trí, để miêu tả bằng những vị ngữ cụ thể, tất cả đều bị cuốn đi, dồn dập, gấp gáp theo nỗi khát khao.
- Cảm xúc gặp lại sông Đà được cụ thể hóa trong những so sánh bất ngờ thú vị: “Chao ôi, trông con sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Nắng tuy hữu hình nhưng lại là vô thể, chỉ có thể nhìn mà không thể nắm bắt, “giòn tan” là chính từ thường chỉ đặc điểm sắc thái của những vật thể mỏng manh dễ vỡ. Nắng “giòn tan” là một ẩn dụ đẹp gợi tả cái nắng thật trong, thật sáng, thật mỏng và thật nhẹ; nó vừa mong manh, vừa quý giá, nó tương phản hoàn toàn với cái u ám trĩu nặng của bầu trời những ngày “mưa dầm”, giúp người đọc dễ dàng hình dung cảm giác trìu mến, nâng niu của nhà văn khi gặp lại con sông. Và sự nối lại giấc mơ càng hy hữu hiếm quý bao nhiêu, càng đem lại cảm giác sung sướng, thú vị bấy nhiêu. Nhà văn của những khát khao đã nhiều lần tới sông Đà và bất cứ lúc nào nếu muốn, ông cũng có thể đến với người cố nhân của mình, vậy mà qua so sánh “vui như nối lại chiêm bao đứt quãng” có thể thấy cảm giác khi gặp lại dòng sông lần nào cũng tươi mới kỳ diệu như được nối lại một giấc mơ đẹp, lần nào cũng như được tận hưởng niềm vui chưa từng có trong đời, lần nào cũng như lần đầu tiên, cuối cùng và duy nhất.
- Và cuối cùng, trong hình ảnh so sánh về cảm giác gặp lại sông Đà, nó “đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân”, sông Đà đã thực sự trở thành người bạn cũ, một tri âm với bao kỷ niệm gắn bó trong quá khứ, bao nhớ thương trong hiện tại, bao chung thủy trong tương lai đến, một cố nhân trái tính mà vẫn có sức hấp dẫn đến lạ kỳ.
- Nguyễn Tuân say mê miêu tả dòng sông với tất cả sự tinh tế của cảm xúc, và bằng một tình yêu thiết tha thiên nhiên đất nước. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu tự hào về một dòng sông, một ngọn thác, một dòng chảy đã tạo nên những trang văn đẹp hiếm có – Nguyễn Tuân xứng đáng là một cây bút tài hoa bậc nhất của nền văn học Việt Nam.
2.4. Nhận xét
- Với Nguyễn Tuân con sông Đà không phải là một thực thể vô tri vô giác mà dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân nó được thể hiện với những cá tính rõ nét. Đó là những tính cách độc đáo thể hiện qua sự hùng vĩ và thơ mộng.
+ Đoạn văn 1: là những hình ảnh đó của sông Đà hùng vĩ, bí hiểm hung bạo mà đầy những chông gai, thử thách là hiện thân của thứ kẻ thù luôn thách thức, tấn công và cực kì nguy hiểm với con người.
+ Đoạn văn 2: sông Đà không còn là con sông hung bạo hiểm trở, không còn là những thác nước cheo leo hay những bờ đá dựng đứng đầy hiểm trở mà con sông ở đây hiền hòa, gần gũi, trở thành người bạn thân thiết tri kỉ của con người.
- Cả hai đoạn văn đều thể hiện nét tài hoa của Nguyễn Tuân trong nghệ thuật so sánh, sự độc đáo trong trí tưởng tượng phong phú, mà còn là một biểu hiện tình cảm sâu sắc đối với dòng sông Đà. Những quan sát, suy nghĩ, xúc cảm của ông rất tinh vi nhưng cũng rất chân thật, xuyên suốt cả tác phẩm là lời văn mạnh mẽ, dữ dội và đầy chiều sâu kiến thức lẫn chiều sâu của ngôn ngữ văn chương.
3. Kết bài
Lấy người lái đò làm nhân vật chủ thể của câu chuyện về con Sông Đà, nhà văn bộc lộ cảm nghĩ, nghe nhìn, quan sát, nghiền ngẫm và sáng tạo của mình, qua “Người lái đò Sông Đà”, người ta luôn bắt gặp những hình ảnh ví von độc đáo, bất ngờ. Bài viết cho ta cảm giác Nguyễn Tuân muốn đua tài năng viết văn của mình với vẻ đẹp tạo hóa, của thiên nhiên và con người. Chính vì thế mà Sông Đà trong văn chương ông vừa là Sông Đà hiện thực, vừa là Sông Đà nghệ thuật mang tình yêu của Nguyễn Tuân.
 

xuanle17

Cựu Mod Ngữ Văn
Thành viên
14 Tháng chín 2018
804
1,014
181
25
Thừa Thiên Huế
Đh sư phạm huế
ĐỀ SỐ 5
Phần I. Đọc hiểu (3,0 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:​
Một hôm vua Ba Tư Nặc hỏi phu nhân Mạt Lợi:​
- Trên đời nầy ái khanh yêu ai nhất?
Phu nhân Mạt Lợi đáp:​
- Dĩ nhiên, người thiếp yêu nhất chính là bệ hạ.
Vua Ba Tư Nặc nói:​
- Trẫm cũng đoán rằng khanh sẽ nói như thế.
Phu nhân Mạt Lợi mỉm cười:​
- Tâu bệ hạ, nếu thánh thượng cho phép, thần thiếp sẽ nói khác đi một tí, nhưng xác thực hơn.
Vua Ba Tư Nặc bảo:​
- Khanh cứ nói!
Phu nhân Mạt Lợi thưa:​
- Tâu bệ hạ, người mà thần thiếp yêu quí nhất, chính là thần thiếp.
Vua Ba Tư Nặc ngạc nhiên:​
- Sao? Mình lại yêu mình? Trẫm không hiểu khanh muốn nói gì?
Phu nhân Mạt Lợi thưa:​
- Tâu bệ hạ, vì có ái trọng tự ngã mình, nên thần thiếp mới yêu thương bệ hạ, vì bệ hạ là người đem lại hạnh phúc cho cái tự ngã này.
Vua Ba Tư Nặc nói:​
- Trẫm biết điều đó, nhưng vẫn chưa hiểu rõ ý khanh.
Phu nhân Mạt Lợi dè dặt:​
- Tâu bệ hạ, thần thiếp mạn phép nêu ra một câu hỏi: "Trên đời nầy bệ hạ yêu thương ai nhất?"
Vua Ba Tư Nặc cười:​
- Ái khanh chứ còn ai!
Phu nhân Mạt Lợi hỏi tiếp:​
- Giả sử thần thiếp yêu thương một người đàn ông khác thì bệ hạ sẽ làm gì?
Vua Ba Tư Nặc lúng túng:​
- ?, trẫm sẽ..., trẫm sẽ...
Phu nhân Mạt Lợi tiếp lời:​
- Bệ hạ sẽ nổi trận lôi đình, chém đầu thần thiếp ngay lập tức phải không?
Vua Ba Tư Nặc giả lả:​
- Khanh hỏi rắc rối quá! Rắc rối thật!
Phu nhân Mạt Lợi hỏi:​
- Tâu bệ hạ, có đúng thế không ạ?
Vua Ba Tư Nặc đáp:​
- ?... à...
Phu nhân Mạt Lợi hỏi dồn:​
- Ðúng, phải không bệ hạ?
Vua Ba Tư Nặc im lặng giây lâu, nói:​
- Có lẽ khanh nói đúng.
Phu nhân Mạt Lợi nói:​
- Thế là bệ hạ đã đáp câu hỏi của thần thiếp rồi!"
Yêu người ta nhất đời mà người ta yêu kẻ khác thì chặt đầu. Như vậy có yêu nhất đời chưa? Nếu yêu nhất đời thật, thì dù người ta có yêu ai khác, mình cũng vẫn yêu họ. Thế mà người ta không thương mình thì mình chặt đầu, vậy thương đó là vì ai? Thương đó là vì mình! Mình chỉ thương mình thôi! Tất cả mọi đối tượng mà mình thương mến đều vì mình mà mình thương, thương người qua tự ngã của mình đó vậy.
(Trích Con đường giải thoát, Thiền tông Việt Nam)​
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt của văn bản?
Câu 2. Vì sao đứng trước câu hỏi Trên đời nầy ái khanh yêu ai nhất? phu nhân Mạt Lợi lại có hai cách trả lời khác nhau?
Câu 3. Anh/chị có đồng ý với chia sẻ của phu nhân Mạt Lợi: Mình chỉ thương mình thôi! Tất cả mọi đối tượng mà mình thương mến đều vì mình mà mình thương, thương người qua tự ngã của mình đó vậy.
Câu 4. Bài học mà anh/chị tâm đắc nhất từ văn bản trên?

Phần II. Làm văn (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Từ ý nghĩa câu chuyện ở phần đọc hiểu, anh/chị hãy suy nghĩ và trả lời cho câu hỏi: “Mình yêu ai nhất” và trình bày điều đó trong một đoạn văn khoảng 200 chữ.
Câu 2. (5,0 điểm)
Cảm nhận của anh/chị về cách xây dựng không gian nghệ thuật trong truyện ngắn Vợ nhặt – Kim Lân qua những đoạn văn sau:
Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người.
...Hắn chắp hai tay sau lưng lững thững bước ra sân. ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng lóa xói vào hai con mắt còn cay xè của hắn. Hắn chớp chớp liên hồi mấy cái, và bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ.
...Tự dưng hắn thấy ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu. Ngoài đình tiếng trống thúc thuế vẫn dồn dập. Mẹ và vợ Tràng đã buông đũa đứng dậy. Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới...
(Vợ nhặt, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2015)​


ĐÁP ÁN THAM KHẢO
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Câu 1 Phương thức biểu đạt tự sự
Câu 2 Đứng trước câu hỏi Trên đời này ái khanh yêu ai nhất? phu nhân Mạt Lợi lại có hai cách trả lời khác nhau:
+ Đó là cách nói khác nhau nhưng nội dung ý nghĩa giống nhau
+ Câu trả lời thứ 2 làm rõ hơn cho câu trả lời thứ 1: mình chỉ yêu bản thân mình, mình chỉ yêu người khác vì tình yêu của người khác dành cho mình.
Câu 3 HS bày tỏ ý kiến của bản thân mình:
+ Đồng ý: tình yêu dành cho bản thân là tình yêu lớn nhất, có yêu thương mình mới biết yêu thương người khác. Tình yêu dành cho bản thân không đồng nghĩa là ích kỉ mà bởi vì mình hiểu chính mình và luôn muốn những điều tốt đẹp cho bản thân.
+ Không đồng ý: vẫn có những tình yêu vị tha luôn hi sinh và nghĩ về người khác mà không vụ lợi bản thân. Khi hai người đồng nhất, cùng chí hướng thì tình yêu vì mục đích và lợi ích chung chứ không còn phán xét yêu thương ai hơn.
Câu 4: HS rút ra một số bài học, dưới đây là một số gợi ý:
+ Người ta yêu thương người khác vì người khác đem lại hạnh phúc cho mình.
+ Yêu người ta mà người ta yêu người khác mà thay đổi tình cảm thì đó chưa phải là yêu người nhất
+ Tình yêu cần sự hy sinh vị tha, vì hạnh phúc của mình mà cũng vì người
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
Đoạn văn có bố cục rõ ràng, lôgic, có thể có nhiều ý khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý sau:
+ Tình yêu: là sự yêu mến, đồng cảm, sẻ chia dành những điều tốt đẹp, mong muốn đem đến hạnh phúc cho người đó.
+ Tình yêu cao thượng là tình yêu mà luôn nghĩ đến hạnh phúc của người khác chứ không phải ích kỉ nghĩ đến người khác sẽ đem lại hạnh phúc gì cho mình.
+ Ban đầu có thể ai cũng nghĩ đến bản thân trước nhưng khi trưởng thành gặp người thực sự muốn gắn bó thì thì lúc đó bạn sẽ nghĩ và yêu người khác hơn bản thân mình.
+ Đó có thể là tình cảm gia đình, tình tri kỉ, tình yêu đôi lứa. Phải biết quên đi bản thân để dành trọn vẹn tình cảm cho người khác.

Câu 2 (5,0 điểm)
1. Mở bài
– Giới thiệu vấn đề nghị luận
Trong một lần phát biểu, Kim Lân từng nói: “Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người”.
– Dẫn ra vấn đề cần nghị luận
Và điểm sáng mà nhà văn muốn đem vào tác phẩm chính là ở chỗ đó. Đó chính là tình người và niềm hi vọng về cuộc sống, về tương lai của những con người đang kề cận với cái chết. Điều đó được thể hiện rõ nét qua cách mở đầu và kết thúc truyện ngắn.
2. Thân bài
2.1. Khái quát chung
Truyện "Vợ nhặt" có tiền thân từ tiểu thuyết "Xóm ngụ cư". Tác phẩm được viết ngay sau cách mạng tháng Tám nhưng còn dang dở và mất bản thảo. Sau hoà bình lập lại (1954) Kim Lân dựa vào phần cốt truyện cũ và viết lại thành truyện "Vợ nhặt". Tác phẩm được in trong tập truyện "Con chó xấu xí" . Truyện tái hiện lại bức tranh nạn đói năm 1945. Qua đó, thể hiện tấm lòng cảm thông sâu sắc của nhà văn đối với con người trong nạn đói.
2.2 Cảm nhận về đoạn 1
- Nhà văn đã tái hiện lại trước mắt ta một không gian nạn đói thật thảm hại, thê lương. Trong đó ngổn ngang những kẻ sống, người chết, những bóng ma vật vờ, lặng lẽ giữa tiếng hờ khóc và tiếng gào thét kinh hoàng của đám quạ.
+ Nhân dân lao động bị đói, tiều tuỵ đáng thương cứ hiện lên trước mắt. Còn nỗi đau đớn nào hơn khi chứng kiến cái cảnh “ Cái đói đã tràn về” trẻ con vì đói khát mà “chúng ngồi ủ rũ không buồn nhúc nhích”. bởi thế những góc tường, phố chợ người đói nằm “la liệt như ngã rạ”
+ Âm thanh thê thiết của tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ đang gào lên từng hồi, là tiếng ai hờ khóc lúc to, lúc nhỏ vẳng đến từ phía những nhà có người chết đói.
+ Mùi vị: không khí ở đây vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người. Quyện trong đó còn có mùi khét lẹt của đống rấm được đốt ở những nhà có người chết.
- Mặc dù không có một dòng nào tố cáo trực tiếp tội ác của bọn thực dân Pháp và phát xít Nhật, hình ảnh của chúng cũng không một lần xuất hiện, nhưng tội ác của chúng vẫn hiện lên một cách rõ nét.
- Kim Lân đã dựng cảnh hiện thực một cách độc đáo như vậy nhưng về phương diện khác cách xây dựng nhân vật và diễn biến tâm lý nhân vật lại càng độc đáo hơn. Con người của Tràng kia đã bật lên niềm sống, một khát vọng yêu thương chân thành. Và dường như hắn đang ngầm chứa một ao ước thiết thực về sự đầm ấm của tình cảm vợ chồng, của hạnh phúc lứa đôi. Hành động của Tràng dù vô tình, không có chủ đích, chỉ tầm phơ tầm phào cho vui nhưng điều ấy khong hề mở cho ta thấy tình cảm của một con người biết yêu thương, cưu mang, đùm bọc những người đồng cảnh ngộ.
2.3 Cảm nhận về đoạn 2
- Ánh sáng của buổi sớm là ánh sáng của niềm lạc quan vào tương lai đang hiện ra trong tâm hồn của mỗi người:
+ Buổi sáng đầu tiên sau khi có vợ, anh thấy cuộc đời mình đã thay đổi hẳn: Trong tâm trạng “êm ái lửng lơ”, anh nhận thấy “xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ…”Anh bỗng thấy mình trưởng thành, ý thức về bổn phận, trách nhiệm với gia đình…
+ Bà cụ Tứ đã có những thay đổi mới mẻ. Bà dậy sớm cùng con dâu thu dọn, “cái mặt bủng beo u ám” hàng ngày của bà hôm nay “rực rỡ hẳn lên”.
+ Người vợ nhặt không còn đâu người đàn bà chao chát, chỏng lỏn Tràng gặp hôm trước, khi đã là nàng dâu thị trở nên là người đàn bà hiền hậu, đúng mực, nền nã, ra vào thu vén nhà cửa… Sự thay đổi ấy chính là thái độ vun đắp cho hạnh phúc gia đình.
- Câu chuyện mở ra vào một buổi chiều chạng vạng và khép lại trong “ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng lóa”. Khi bắt đầu truyện ta chỉ gặp một anh Tràng bước thấp bước cao trên đường làng dưới ánh nắng mờ nhạt của một gầm trời đầy đói khát, nhưng đến lúc kết thúc Tràng đã có một mái ấm gia đình để vun xới, để cố gắng xây đắp.
2.4 Cảm nhận về đoạn 3
- Hình ảnh “đám người đói và lá cờ đỏ”
+ Hiện lên trong tâm trí Tràng vừa gợi ra cảnh ngộ đói khát thê thảm vừa gợi ra những tín hiệu của cuộc cách mạng, cả hai đều là những nét chân thực trong bức tranh đời sống lúc bấy giờ.
+ Tín hiệu thật mới mẻ về một sự đổi thay xã hội rất lớn lao, có ý nghĩa quyết định với sự đổi thay của mỗi số phận con người. Đây là điều mà các tác phẩm văn học hiện thực giai đoạn 1930 – 1945 không nhìn thấy được. Nền văn học mới sau Cách mạng tháng tám đã đặt vấn đề và giải quyết vấn đề số phận con người theo một cách khác, lạc quan hơn, nhiều hi vọng hơn.
+ Kết thúc truyện góp phần thể hiện tư tưởng nhân đạo của Kim Lân: trân trọng niềm khát vọng sống ngay bên bờ vực cái chết của người lao động nghèo; niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng. Nó thể hiện niềm tin và hy vọng của cả dân tộc vào một tương lai tươi sáng đồng thời nó giống như ngọn đuốc chỉ đường đến mục đích cuối cùng là sự độc lập-tự do- hạnh phúc mà điều đó chỉ giành được khi đi theo con đường cách mạng và bằng đấu tranh vũ trang.
- Ý nghĩa nghệ thuật:
+ Hình ảnh dùng để kết thúc truyện là triển vọng sáng sủa của hiện thực tăm tối, đó là tương lai đang nảy sinh trong hiện tại, vì thế nó quyết định đến âm hưởng lạc quan chung của câu chuyện.
+ Cuộc đời của những người như Tràng nếu không có một sự thay đổi mang tính đột biến của cả xã hội sẽ sống mãi trong sự tăm tối, đói khát. Ở Tràng, tuy chưa có được sự thay đổi đó, nhưng cuộc sống đã bắt đầu hé mở cho anh một hướng đi. Đó là con đường đến với cách mạng một cách tự nhiên và tất yếu mà những người như Tràng sẽ đi và trong thực tế lịch sử, người nông dân Việt Nam đã đi.
+ Đây là kiểu kết thúc mở giúp thể hiện xu hướng vận động tích cực của cuộc sống được mô tả trong toàn bộ câu chuyện; dành khoảng trống cho người đọc suy tưởng, phán đoán.
2.4. Nhận xét
- Bằng tấm lòng đôn hậu chân thành, nhà văn đã gửi gắm vào trong không gian tăm tối ấy những mầm sống đang cố vươn đến tương lai, những tình cảm chân thành, yêu thương bình dị nhưng rất đỗi cao quý ấy và nhà văn đã để những số phận như anh Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ được thăng hoa trước ngọn cờ đỏ phất phới cùng đám người đói phá kho thóc Nhật ở cuối thiên truyện. Bức tranh tái hiện không khí ảm đạm, cuộc sống nghèo khó của người dân trước Cách mạng tháng Tám được thắp sáng niềm tin toát lên từ hình ảnh "lá cờ đỏ" - một hình ảnh rất Việt Nam.
- Nạn đói ấy không thể ngăn cản được ánh sáng của tình người. Đêm tối ấy rồi sẽ qua đi để đón chờ ánh sáng của cuộc sống tự do đang ở phía trước, trước sức mạnh của cách mạng. Một lần nữa, Kim Lân không ngần ngại gieo rắc hạnh phúc, niềm tin ấy trong các nhân vật của mình.
3. Kết bài
Kim Lân cũng thật thành công khi xây dựng nhân vật này để góp thêm tiếng lòng ca ngợi sức sống của vẻ đẹp tình người, niềm tin ở cuộc đời phía trước trong những con người đói khổ ấy. Và thật ngạc nhiên, khi nói về ước vọng tương lai, niềm tin vào hạnh phúc, vào cuộc đời, người ta dễ nghĩ đến sự sống và thay đổi cuộc sống.

 
Last edited:

xuanle17

Cựu Mod Ngữ Văn
Thành viên
14 Tháng chín 2018
804
1,014
181
25
Thừa Thiên Huế
Đh sư phạm huế
ĐỀ SỐ 6
Phần I. Đọc hiểu (3,0 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
ĐIỀU QUAN TRỌNG NHẤT
Một vị Quốc vương mong muốn nhân dân trong vương quốc của ông mãi được sống trong thái bình, nghĩ rằng nếu như có thể giải quyết tốt ba việc thì quốc gia sẽ luôn cường thịnh.
Thứ nhất, làm sao dự đoán trước được thời gian quan trọng nhất;
Thứ hai, làm sao biết được người quan trọng nhất;
Thứ ba, làm sao thực hiện được nhiệm vụ tốt nhất.
Quần thần hiến kế rằng: Phải nắm được thời gian, phải chỉnh lý các bảng biểu; mà nhiệm vụ hàng đầu hiện nay là bồi dưỡng giáo sĩ và nhà khoa học; nhiệm vụ cần thiết hiện nay là phát huy khoa học và thực thi pháp luật nghiêm minh.
Quốc vương đến thăm một vị ẩn sĩ, xin ý kiến ông ta về ba vấn đề trên, nhưng ẩn sĩ không trả lời. Quốc vương thấy ẩn sĩ đào đất mệt mỏi liền xuống giúp ông ta. Lúc trời chập choạng tối, có một người bị thương đến tìm vị ẩn sĩ, Quốc vương giúp anh ta băng bó vết thương, sau đó lên đường quay về cung.
Hôm sau, người bị thương tìm gặp Quốc vương nói:
— Vốn dĩ tôi là kẻ thù của ngài, hôm qua biết ngài đến thăm ẩn sĩ, tôi muốn đợi lúc ngài trở về sẽ giết chết ngài, nhưng bị vệ sĩ phát hiện, đánh tôi bị thương, không ngờ lại gặp ngài. Cảm ơn ngài đã cứu giúp, tôi không còn là kẻ thù của ngài nữa! Tôi muốn làm bạn với ngài.
Sau khi người bị thương bỏ đi, Quốc vương lại hỏi ẩn sĩ giải đáp ba vấn đề trên, ẩn sĩ nói:
— Thần đã trả lời rồi!
— Ngươi trả lời bao giờ?
Ẩn sĩ nói:
— Nếu Bệ hạ không thương xót thần lao động cực nhọc, ở lại đây giúp thần khiến chậm trễ thời gian quay về, thì đã bị kẻ thù giết hại. Nếu như Bệ hạ không thương tên địch bị thương, băng bó cho hắn, hắn sẽ không dễ dàng bị Bệ hạ thuần phục, mà xóa bỏ thù hận. Do đó, thời gian quan trọng nhất là ...; người quan trọng nhất chính là ....; trên thế gian việc quan trọng nhất chính là...
(Trích 100 câu chuyện triết lí và kẻ trí, NXB Hồng Đức, 2012)
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt của văn bản?
Câu 2. Vì sao các quần thần đưa ra kế sách để đáp lại câu hỏi của Quốc vương là gì? Vì sao lại đưa ra các kế sách đó?
Câu 3. Thông qua câu chuyện Quốc vương đến thăm vị ẩn sĩ, anh/chị cảm nhận được điều gì về vị Quốc vương này?
Câu 4. Từ câu chuyện Quốc vương đến thăm vị ẩn sĩ, vị ẩn sĩ đã đưa ra câu trả lời như thế nào cho ba câu hỏi của quốc vương. Điền vào dấu ... câu trả lời mà anh/chị cho là hợp lí nhất.

Phần II. Làm văn (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Từ ý nghĩa câu chuyện ở phần đọc hiểu, hãy bàn luận về 1 trong 3 câu hỏi của Quốc vương và trình bày điều đó trong một đoạn văn khoảng 200 chữ.
Câu 2. (5,0 điểm)
Cảm nhận của anh/chị về hành trình của hình tượng sóng và em trong hai đoạn thơ sau:
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
...
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.
(Sóng, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2015)

HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỀ THI
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Câu 1: Phương thức biểu đạt tự sự
Câu 2: Kế sách của các quần thần đưa ra cho Quốc vương: Phải nắm được thời gian, phải chỉnh lý các bảng biểu; mà nhiệm vụ hàng đầu hiện nay là bồi dưỡng giáo sĩ và nhà khoa học; nhiệm vụ cần thiết hiện nay là phát huy khoa học và thực thi pháp luật nghiêm minh.
Lí do: kế sách được đưa ra dưới góc nhìn của những quần thần để đưa ra các chính sách trị nước bao gồm phát triển khoa học, phát luật và bồi dưỡng nhân tài.
Câu 3: Thông qua câu chuyện Quốc vương đến thăm vị ẩn sĩ, có thể thấy vị Quốc vương là người có trách nhiệm với nhân dân, có tầm nhìn xa trông rộng, nhân từ, bác ái...
Câu 4: Từ câu chuyện Quốc vương đến thăm vị ẩn sĩ, vị ẩn sĩ đã đưa ra câu trả lời như thế nào cho ba câu hỏi của quốc vương. HS có thể đưa ra lý giải của riêng mình sao cho phù hợp với nội dung câu chuyện. Dưới đây là một gợi ý:
+ Thời gian quan trọng nhất là hiện tại, chỉ có hiện tại mới có thể nắm vững;
+ Người quan trọng nhất chính là người bên cạnh, vì Bệ hạ có thể ảnh hưởng đến họ ngay lập tức;
+ Việc quan trọng nhất chính là tình yêu, không có tình yêu, cuộc sống làm sao có ý nghĩa.
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1: (2,0 điểm)
Đoạn văn có bố cục rõ ràng, lôgic, có thể có nhiều ý khác nhau nhưng cần đảm bảo một trong các ý sau:
+ Thời gian hiện tại: có ý nghĩa và đáng trân trọng vì đó là thời gian mình làm chủ, có thể hành động để thay đổi tương lai. Quá đắm chìm trong quá khứ hay chỉ nghĩ đến tương lai mà không hành động sẽ rất hoài phí.
+ Người bên cạnh ta là người thân thiết, gần gũi, chia ngọt sẻ bùi. Nếu không trân trọng tình cảm của họ và những giá trị mà họ đem lại thì khi họ rời xa ta sẽ phải ân hận.
+ Tình yêu là nhiệt huyết để con người sống, làm việc, cống hiến và trao đi tình yêu tới mọi người. Thiếu đi tình yêu thế giới chỉ còn hận thù, mất đi sức sống, sự gắn kết...
+ Những bài học trên không chỉ có ý nghĩa với người đứng đầu vương quốc mà còn có ý nghĩa với mỗi người bình thường khác.
Câu 2: (5,0 điểm)
1. Mở bài
– Giới thiệu vấn đề nghị luận
Sóng của Xuân Quỳnh tiếng nói của một trái tim chân thành và đam mê, luôn rực cháy chất trẻ trung mãnh liệt, khao khát được sống hết mình và yêu hết mình
– Dẫn ra vấn đề cần nghị luận
Cả bài thơ là những con sóng tâm tình xôn xao trong lòng người con gái đang yêu khi đứng trước biển ngắm nhìn những con sóng vô hồi, bất tận. Sóng là một hình tượng ẩn dụ, đó là sự hóa thân của cái tôi trữ tình của nữ sĩ, lúc thì hòa nhập, lúc sự phân thân của “em” - người con gái đang yêu một cách say đắm. Hành trình đó thể hiện qua khát vọng từ “Sông không hiểu nổi mình/Sóng tìm ra tận bể” đến “Làm sao được tan ra/Để ngàn năm còn vỗ”.
2. Thân bài
2.1. Khái quát chung
“Sóng” được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”, xuất bản năm 1968 của nữ nhà thơ tình nổi tiếng Xuân Quỳnh. Bài thơ nói về tâm trạng, tình yêu mãnh liệt của người con gái khi yêu. Hãy đến với bài thơ bằng nhạc điệu, bài thơ là âm điệu của một cõi lòng bị sóng khuấy động, đang rung lên đồng điệu đồng nhịp với sóng biển. Rạo rực đến xôn xao, khát khao đến khắc khoải, có một hình tượng sóng được vẽ lên bằng âm điệu, một âm điệu dập dồn, chìm nổi, miên man như hơi thở chạy suốt cả bài.
2.2 Cảm nhận về đoạn thơ đầu
- Mở đầu bài thơ, sóng hiện ra với một ý nghĩa rất đặc biệt: sóng mang nét đẹp nữ tính
“Dữ dội và dịu êm”… “Sóng tìm ra tận bể”.
+ Xuân Quỳnh đã thấy sóng manh trong mình khí chất của người phụ nữ. Khổ thơ thứ nhất là tiếng nói đầu kiêu hãnh về giới mình của người phụ nữ này. Trong khí chất của sóng có sự hài hoà của các đối cực: vừa dữ dội nhất vừa dịu êm nhất, vừa ồn ào nhất vừa lặng lẽ nhất.
+ Mỗi con sóng nhỏ lại mang trong mình một khát vọng lớn. Vì mang khát vọng lớn mà sóng trở nên quyết liệt: khi “sóng không hiểu nổi mình”, thì “sóng tìm ra tận bể”→Sóng từ bỏ chật chội, nhỏ hẹp để tìm đến sự lớn lao, bao dung, khoáng đạt.
- Mượn một qui luật tự nhiên để biểu trưng cho những băn khoăn trong lòng mình. Nước sông tự bao đời vẫn đổ ra biển lớn. Sóng chủ động từ bỏ không gian nông cạn chật chội về với không gian rộng lớn vô hạn> khát khao vượt giới hạn nhỏ bé, vươn tới không gian rộng lớn hơn để lí giải chính mình của con người.
- Tình yêu cũng như con sóng, vẫn vĩnh hằng với thời gian và tuổi trẻ:
+Thời gian: “ngày xưa” và “ngày sau” > tình yêu chạy theo chiều thời gian thăm thẳm vẫn mãi mãi tươi mới, mãi không hết “bồi hồi”
+ Khám phá mới về sóng: tượng trưng cho sự bất diệt của tuổi trẻ và khát vọng tình yêu.
- Mượn qui luật tự nhiên để diễn tả một triết lí dung dị nhưng thấm thía về tình yêu và tuổi trẻ: còn tuổi trẻ là còn khát vọng, mà khát vọng yêu thương mãi còn tức là con người mãi trẻ trung. (so sánh với triết lí của Xuân Diệu: Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn/ Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại)
2.3 Cảm nhận về đoạn thơ cuối
- Ước nguyện dâng hiến, khát vọng bất tử:
+ Số từ: trăm – ngàn.
+ Ước nguyện chân thành, lớn lao: muốn hoá thân vào sóng, đại dương để được bất tử bởi chỉ thiên nhiên mới vĩnh viễn trường cửu > vượt qua giới cái hữu hạn của đời người, khát vọng hoá thân vào thiên nhiên để bất tử hoá tình yêu.
+ Lí giải bản lĩnh của sóng ở đoạn đầu tiên “Sông không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận bể”: bởi sóng mang trong mình khát vọng nhận thức và khát vọng yêu thương mãnh liệt.
- Vẻ đẹp tình yêu, tâm hồn, thơ Xuân Quỳnh: thuỷ chung, dịu dàng, chân thật mà mãnh liệt, khao khát.
Nét truyền thống và hiện đại: vẫn mang những nét đẹp truyền thống nhưng tâm thế hoàn toàn hiện đại- vẻ đẹp của trí tuệ – tự nhận thức và khát vọng hiến dâng bất tử
2.3. Nhận xét
Tác giả mượn quy luật của tự nhiên, của những con sóng để nói đến quy luật của lòng người . Sóng luôn khao khát vươn tới bờ như em luôn khao khát có anh. Cũng như những con sóng vượt qua mọi cách trở luôn vươn tới được bờ, em với trái tim yêu chân thành này cũng sẽ bước qua mọi thử thách khó khăn đi cập bến bờ hạnh phúc.
Từ hình tượng “sóng” Xuân Quỳnh cho ta thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu. Với tình yêu chân thành, thắm thiết, người phụ nữ muốn sống hết mình, sống trọn vẹn trong tình yêu đẹp. Yêu là nhớ ngày mong đêm, người phụ nữ khát khao được hòa nhập gần gũi trong tình yêu ấy. Họ yêu thật nồng nàn, say đắm, thủy chung.
3. Kết bài
Bài thơ "Sóng" như lời tự bạch chân thành của trái tim người phụ nữ đang yêu thể hiện tâm hồn phong phú, khát khao hạnh phúc và tự nhận thức về tình yêu hạnh phúc. Trong rất nhiều loài hoa thì bông hoa lạ của Xuân Quỳnh tỏa ra một hương thơm riêng, một cách cảm nhận riêng về sóng – biển trong tình yêu. Tình yêu như con sóng mênh mang, vô tận, song cái đích cuối cùng cũng là một tình yêu thứ nhất, vĩnh hằng mãi mãi.
 

xuanle17

Cựu Mod Ngữ Văn
Thành viên
14 Tháng chín 2018
804
1,014
181
25
Thừa Thiên Huế
Đh sư phạm huế
ĐỀ SỐ 7
Phần I. Đọc hiểu (3,0 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Con rắn trong ly rượu
Ở Trung Quốc thời xưa có một người đàn ông tên là Lý Quảng. Một hôm, người này quyết định đến thăm một người bạn đã lâu không gặp. Ngay khi nhìn thấy dáng vẻ tiều tụy, ốm o của bạn mình, Lý Quảng đã nhận ra hẳn là bạn mình đã gặp phải chuyện gì đó không hay.
Khi Lý Quảng mới hỏi nguyên cớ làm sao lại ra nông nỗi này, người bạn đáp rằng đó là do một bữa tiệc được tổ chức ở nhà Lý Quảng.
"Trong bữa tiệc đó, anh đã nâng một chén rượu mời tôi, và khi đó, khi nâng ly, tôi nhìn thấy một con rắn nhỏ nằm trong đó, ngay lập tức, tôi đã cảm thấy không khỏe trong người. Kể từ đó, tôi cứ nằm trên giường mà chẳng thể nào làm được việc gì", người bạn giãi bày.
Lý Quảng vô cùng bối rối. Khi về đến nhà, Lý Quảng phát hiện ra trên tường phòng nhà mình có treo một cây cung có chạm khắc hình một chú rắn và hiểu ra mọi chuyện. Lý Quảng cho người đến đón người bạn kia tới nhà mình chơi, rồi lại bày một chiếc bàn tiệc giống hệt như lần trước.
Ban đầu, Lý Quảng quay phần cây cung có con rắn ra ngoài, rồi rót đầy cốc rượu mời người bạn nọ, bảo người này nâng ly xem có thấy gì không. Người này trả lời: "Đúng là con rắn tôi nhìn thấy lần trước."
Sau đó, Lý Quảng mỉm cười rồi lấy cây cung treo ở trên tường xuống. "Giờ thì anh có nhìn thấy con rắn nữa không?" Người bạn vô cùng ngạc nhiên khi thấy con rắn biến mất trong cốc rượu của mình. Từ đó trở đi, cả tâm bệnh lẫn thân bệnh của người này, chẳng chữa cũng tự hết.

Câu 1. Nguyên nhân trực tiếp nào dẫn đến tình trạng tiều tụy, ốm o về thể chất cũng như tinh thần của người bạn Lí Quảng?
Câu 2. Tình trạng sợ hãi ấy bắt nguồn từ Lí Quảng hay từ người bạn của Lí Quảng? Vì sao?
Câu 3. Nguyên nhân thực sự dẫn đến nỗi sợ của người bạn Lí Quảng là gì?
Câu 4. Từ câu chuyện trên, anh/chị có lời khuyên gì để mỗi người có thể vượt qua nỗi sợ hãi của chính mình?

Phần II. Làm văn (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Từ nội dung của phần đọc hiểu, anh/chị hãy viết đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ của mình về những nỗi sợ hãi vô hình trong cuộc sống.
Câu 2. (5,0 điểm)
Cảm nhận của anh/chị về thiên nhiên hùng vĩ dữ dội và thơ mộng trữ tình qua hai đoạn thơ sau trong bài thơ Tây Tiến – Quang Dũng:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
...
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

(Tây Tiến, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2015)

HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỀ THI
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Câu 1:Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tình trạng tiều tụy, ốm o về thể chất cũng như tinh thần của người bạn Lí Quảng:
+ Nhìn thấy con rắn nhỏ trong ly rượu mà Lí Quảng mời
+ Cảm thấy lo lắng, sợ hãi vì nghĩ rằng Lí Quảng đang làm hại mình
Câu 2: Tình trạng sợ hãi ấy bắt nguồn từ chính người bạn của Lí Quảng
Lí do: người bạn của Lí Quảng chưa hiểu rõ vấn đề, chưa tìm hiểu kĩ càng nên hiểu nhầm và tự sinh ra huyễn hoặc, suy diễn và sợ hãi.
Câu 3: Nguyên nhân thực sự dẫn đến nỗi sợ của người bạn Lí Quảng là do chưa hiểu biết đầy đủ, sáng rõ về vấn đề.
Câu 4: Lời khuyên gì để mỗi người có thể vượt qua nỗi sợ hãi của chính mình:
+ Người ta chỉ sợ hãi khi không nhìn rõ và toàn diện vấn đề
+ Trước mọi vấn đề phải tìm hiểu và nắm vững bản chất vấn đề
+ Hiểu rõ bản chất vấn đề là cách vượt qua nỗi sợ hãi tốt nhất
+ Khi trải qua vấn đề đó rồi thì nỗi sợ hãi sẽ tự tan biến


II. LÀM VĂN (7,0 điểm)

Câu 1: (2,0 điểm)
Đoạn văn có bố cục rõ ràng, lôgic, có thể có nhiều ý khác nhau nhưng cần đảm bảo một trong các ý sau:
+ Sợ hãi là tâm lí bình thường của mỗi con người. Có nhiều lí do để sợ hãi như sợ thất bại, sợ nguy hiểm, khó khăn, sợ thua thiệt... đa phần là sợ hãi những điều vô hình, bạn chưa trải qua, chưa có kinh nghiệm...
+ Nguyên nhân của sự sợ hãi nằm ở chính bạn, là do chính chúng ta tưởng tượng ra những vấn đề tiêu cực đang chờ đợi phía trước.
+ Vì thế tâm lí sợ hãi dễ dẫn đến chùn bước, dừng lại, bỏ qua. Người sợ hãi không có đủ dũng khí đối diện với thử thách, khó có được thành công.
+ Sợ hãi là tốt nhưng phải có kế hoạch, có tìm hiểu để tự tin vững vàng vượt qua. Sự hiểu biết là ngọn đèn chiếu rọi bóng tối của sự sợ hãi.
+ Khó khăn, thử thách là tất yếu trên mọi con đường, thất bại cũng là điều không tránh khỏi, vấn đề là bạn có đủ ý chí, niềm tin để vững vàng tiến về phía trước hay không.
Câu 2: (5,0 điểm)
1. Mở bài
– Giới thiệu vấn đề nghị luận
Nếu người lính trong Đồng chí (Chính Hữu), Nhớ (Hồng Nguyên)Cá nước (Tố Hữu) mang dáng dấp của những người nông dân ra trận, chất phác, hồn nhiên , ra đi từ mái tranh gốc rạ, bến nước cây đa ..., thì người lính của binh đoàn Tây Tiến trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng lại mang những nét riêng độc đáo.
– Dẫn ra vấn đề cần nghị luận
Chân dung đoàn binh Tây Tiến được chạm khắc bằng nét bút vừa hiện thực vừa lãng mạn. Các chi tiết như lấy từ đời sống hiện thực và khúc xạ qua tâm hồn thơ Quang Dũng để rồi sau đó hiện lên trên trang thơ đầy sức hấp dẫn. Dọc theo hành trình, vẻ đẹp hào hùng kiêu dũng cứ lấp lánh dần lên, đến khi người lính Tây Tiến đối diện với khung cảnh thiên nhiên vừa dữ dội hùng vĩ vừa thơ mộng, lãng mạn. Hai đoạn thơ dưới đây thể hiện tập trung vẻ đẹp đó của đất và người Tây Tiến.
2. Thân bài
2.1. Khái quát chung
Đoàn quân Tây Tiến, sau một thời gian hoạt động ở Lào trở về thành lập trung đoàn 52. Đại đội trưởng Quang Dũng ở đó đến cuối năm 1948 rồi được chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa bao lâu, ngồi ở Phù Lưu Chanh anh biết bài thơ "Tây Tiến.
Khoảng cuối mùa xuân năm 1947, Quang Dũng gia nhập đoàn quân Tây Tiến. Đó là một đơn vị thành lập vào đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Lào_Việt, đánh tiêu hao địch ở Thượng lào để hỗ trợ cho cuộc kháng chiến ở những vùng khác trên đất Lào. Điạ bàn hoạt động cuả đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm vùng rừng núi Tây Bắc Việt Nam và Thượng Lào: từ Châu Mai, Châu Mộc sang tận Sầm Nứa rồi vòng về qua miền tây Thanh Hoá. những nơi này lúc đó còn rất hoang vu và hiểm trở, nuí cao, sông sâu, rừng dầy, nhiều thú dữ.
Những người lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có cả những học sinh, sinh viên (Quang Dũng thuộc số này). Sinh hoạt cuả những người lính Tây Tiến hết sức gian khổ, ốm đau không có thuốc men, tử vong vì sốt rét nhiều hơn là vì đánh trận. Tuy vậy, họ vẫn sống rất lạc quan và chiến đấu dũng cảm. Vượt lên trên mọi thử thách khắc nghiệt cuả chiến tranh và hoàn cảnh sống cực kì gian khổ, họ vẫn giữ được cái cốt cách hào hoa, thanh lịch, rất yêu đời và cũng rất lãng mạn.
2.2 Cảm nhận về đoạn thơ 1
- Bức tranh hoành tráng diễn tả rất đạt sự hiểm trở và dữ dội, hoang vu và heo hút cuả núi rừng Tây Bắc, điạ bàn hoạt động cuả đoàn quân Tây Tiến:
+ Hai câu thơ đầu, những từ đầy giá trị tạo hình "khúc khuỷu", "thăm thẳm", "cồn mây", "súng ngửi trời" đã diễn tả thật đắc điạ sự hiểm trở, trùng điệp và độ cao ngất trời cuả núi đèo Tây Bắc.
+ Hai chữ "ngửi trời" được dùng rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo, vưà ngộ nghĩnh, vưà có chất tinh nghịch cuả người lính. Núi cao tưởng chừng chạm mây, mây nổi thành cồn "heo hút". Người lính trèo lên những ngọn nuí cao dường như đang đi trên mây, mũi súng chạm tới đỉnh trời.
+Câu thứ 3 như bẻ đôi, diễn tả dốc núi vút lên, đổ xuống gần như thẳng đứng, nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm.
+ Nếu như câu thứ ba nhìn lên và nhìn xuống thì câu thứ tư là nhìn ngang. Có thể hình dung cảnh những người lính tạm dừng chân bên một dốc núi, phóng tầm mắt ngang ra xa qua một không gian mịt mùng sương rừng mưa núi thấp thoáng những ngôi nhà như đang bồng bềnh trôi giữa biển khơi.
+ Bốn câu thơ này phối hợp với nhau, tạo nên một âm hưởng đặc biệt. Sau ba câu thơ được vẽ bằng những nét gân guốc, câu thứ tư được vẽ bằng một nét vẽ rất mềm mại (câu thứ tư toàn thanh bằng). Quy luật này cũng giống như cách sử dụng những gam màu trong hội hoạ: giữa những gam màu nóng, tác giả sử dụng một gam màu lạnh làm dịu lại, như xoa mát cả khổ thơ.
- Cái vẻ hoang dại dữ dội, chưá đầy bí mật ghê gớm cuả nuí rừng Tây Bắc được nhà thơ tiếp tục khai thác. Nó không chỉ được mở ra theo chiều không gian mà còn được khám phá ở cả chiều thời gian, luôn luôn là mối đe doạ khủng khiếp đối với con người.
2.3 Cảm nhận về đoạn thơ 2
- Cảnh sông nước miền Tây lại gợi lên cảm giác mênh mang, mờ ảo :
+ Ngòi bút của Quang Dũng không tả mà chỉ gợi .Những hình ảnh “chiều sương ấy”, “hồn lau”, “nẻo bến bờ”, “hoa đong đưa” kết hợp với cách hỏi “có thấy” , “có nhớ” mở ra một khung cảnh buổi chiều sương trong kí ức .
+ Sương mờ giăng mắc khắp không gian, bến bờ lặng lẽ hoang dại
+ Trên sông xuất hiện một dáng người mềm mại, uyển chuyển của cô gái Thái trên chiếc thuyền độc mộc
+ Những bông hoa rừng đong đưa làm duyên trong dòng nước .
- Cảnh như có hồn, có sự thiêng liêng của núi rừng, đậm màu sắc cổ tích và huyền thoại. Qua những nét vẽ hư ảo trên, ta như thấy trước mắt mình một bức tranh sơn thuỷ hữu tình mang dấu ấn của một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, lãng mạn, tài hoa, vô cùng yêu mến, gắn bó với mảnh đất miền Tây Bắc -tâm hồn Quang Dũng .
- Đồng thời ta cũng cảm nhận được tâm hồn rung động của các chiến sĩ Tây Tiến trước cái đẹp .
- Trong hai đoạn thơ sau , nhà thơ không miêu tả cảnh thiên nhiên nữa mà tập trung vào khắc hoạ chân dung người lính tây tiến và nỗi nhớ miền tây bằng những nét vẽ khoẻ khoắn , mạnh bạo , gân guốc đạm chất bi tráng .
2.3. Nhận xét
- Trong nội dung (khám phá, cảm nhận): hai đoạn thơ đều nói đến vẻ đẹp thiên nhiên miền Tây nhưng mỗi đoạn, Quang Dũng lại khám phá ra một vẻ đẹp riêng: đoạn 1 thiên nhiên hùng vĩ dữ dội, đoạn 2 đưa đến vẻ đẹp khác: thơ mộng, mỹ lệ, trữ tình. Hai đoạn thơ đều nói đến vẻ đẹp người lính nhưng mỗi đoạn, Quang Dũng lại cảm nhận được vẻ đẹp riêng của người lính: nếu đoạn 1 người lính hào hùng chiến sĩ thì đoạn 2 là vẻ hào hoa nghệ sĩ.
- Trong nghệ thuật (cách thể hiện): về ngôn ngữ (đoạn 1 thiên về tính tạo hình, góc cạnh, gân guốc thì đoạn 2 thiên về cái đẹp mềm mại, gợi hơn tả); về nhịp thơ (đoạn 1 nhịp mạnh, chắc khỏe; đoạn 2 nhịp chậm, thong thả); về giọng thơ (đoạn 1 giọng chủ âm hào hùng mang chất tráng ca; đoạn 2 giọng thơ tha thiết nhẹ nhàng mang âm hưởng tình ca); về câu thơ (đoạn 1 câu thơ rắn rỏi, gân guốc; đoạn 2 câu thơ mềm mại)...
3. Kết bài
Bài thơ nhớ lại như một kỉ niệm đẹp của thời kháng chiến, bởi đó là tiếng thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng của một thời đại anh hùng rực lửa, không thể nào quên. Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng đã làm nên vẻ đẹp riêng và giá trị bền vững của bài thơ Tây Tiến. Đó là vẻ đẹp của một thời hoa lửa hào hùng một đi không trở lại. Những tiếng thơ bi tráng và hồn thơ lãng mạn hào hoa của Quang Dũng đã kịp ghi lại và giữ cho đời một khung cảnh chiến trường đã đi vào lịch sử - một tượng đài bất tử bằng thơ về người lính vô danh ưu tú của dân tộc mà người đọc muôn đời yêu quý, tự hào.
 
  • Like
Reactions: Issy Key

xuanle17

Cựu Mod Ngữ Văn
Thành viên
14 Tháng chín 2018
804
1,014
181
25
Thừa Thiên Huế
Đh sư phạm huế
ĐỀ SỐ 8
Phần I. Đọc hiểu (3,0 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:

Có một câu chuyện kể về một tiểu hòa thượng làm công việc quét lá trong sân chùa. Đó chẳng phải là công việc dễ dàng gì. Mùa đông, mỗi khi cơn gió thổi qua là từng đợt lá khô lại trút xuống sân. Sáng nào tiểu hòa thượng cũng tốn rất nhiều thời gian để quét sạch đám lá trước sân. Có một vị sư huynh đi ngang qua, thấy thế bèn hỏi:
- Sư đệ sao thế? Trông đệ có vẻ mệt mỏi với việc quét lá trên sân?
- Ngày nào lá cũng rụng, đệ quét mãi mà không hết, vừa quét xong lá đã lại rụng xuống. Hôm nay quét, ngày mai vẫn phải quét. Đệ chán lắm rồi. Sao lại có công việc vô vị như thế này chứ!
- Vậy để ta bày cho đệ cách này nha. Ngày mai, trước khi quét sân hãy rung lắc những cái cây đó thật mạnh, để toàn bộ những chiếc lá vàng phải rụng hết, đến hôm sau cũng chẳng cần động tay vào cây chổi quét lá nữa.
- Đúng là một cao kiến. – Tiểu hòa thượng thầm nghĩ.
Thế rồi, chú dậy thật sớm, lấy hết sức rung lắc thân cây cho lá rụng xuống. Chú vui vẻ suốt cả ngày vì nghĩ ngày mai lá sẽ không rụng nữa. Tuy nhiên đến sáng hôm sau, vừa bước ra sân chùa, tiểu hòa thượng sững sờ, lá vẫn rụng đầy sân như mọi ngày. Vị sư trụ trì đi qua thấy vẻ mặt buồn rầu của chú bèn hỏi:
- Có chuyện gì mà bực bội vậy con?
- Bạch thầy, ngày nào lá cũng rụng làm khổ con phải quét mãi ạ.
- Ai cũng có công việc của mình, việc của con là quét lá. Dù con có dùng cách nào đi chăng nữa thì ngày mai lá vẫn sẽ rụng. Nếu như thế, tại sao ta không vui vẻ mà làm?
Tiểu hòa thượng như vừa ngộ ra một điều: có nhiều chuyện không thể làm trước hay dự tính trước, chỉ có cách làm việc chăm chỉ, coi trọng hiện tại mới là thái độ sống thực tế nhất.
(Theo Hằng Nga, Baodatviet.vn)
Câu 1. Lời khuyên của vị sư huynh trong câu chuyện trên có phải là một cao kiến?
Câu 2. Vì sao tiểu hòa thượng vẫn cảm thấy bực bội sau khi đã rung lắc thân cây cho lá rụng xuống?
Câu 3. Theo anh/chị hình ảnh lá rơi gợi liên tưởng đến những điều gì trong cuộc sống?
Câu 4. Anh/chị có đồng ý với suy nghĩ của tiểu hòa thượng sau khi nghe lời khuyên của vị sư trụ trì: có nhiều chuyện không thể làm trước hay dự tính trước, chỉ có cách làm việc chăm chỉ, coi trọng hiện tại mới là thái độ sống thực tế nhất. Từ đó hãy rút ra bài học cho riêng mình.

Phần II. Làm văn (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Theo anh/chị chúng ta nên ứng xử như thế nào khi biết rằng ngày mai lá vẫn rụng xuống. Hãy viết đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ của mình về điều đó?
Câu 2. (5,0 điểm)
Có ý kiến cho rằng: “Tố Hữu đến với thơ và Cách mạng cùng một lúc. Con đường thơ ca của Tố Hữu bắt đầu gần như đồng thời với con đường hoạt động Cách mạng”. Cảm nhận bức tranh Việt Bắc kháng chiến trong hai đoạn thơ sau, từ đó làm nổi bật ý kiến đó.
Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù
Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai
...
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như lá đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Dấu chân nát đá muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp An Khê
Vui lên Việt Bắc đèo De núi Hồng.
(Việt Bắc, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2015)

HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỀ THI
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Câu 1: Lời khuyên của vị sư huynh trong câu chuyện trên không phải là một cao kiến:
+ Rung lắc cây cho rơi toàn bộ lá nhưng ngày mai lá vẫn rụng và vị tiểu hòa thượng vẫn phải quét.
Câu 2: Vị tiểu hòa thượng vẫn cảm thấy bực bội sau khi đã rung lắc thân cây cho lá rụng xuống vì:
+ Ngày nào lá cũng rụng làm khổ con phải quét mãi.
+ Không thể nào thay đổi được những quy luật tất yếu của cuộc đời.
+ Có tâm lí nóng vội, chưa biết cách đón nhận những biến cố xảy ra với công việc của mình.
Câu 3: Hình ảnh lá rơi liên tưởng đến những khó khăn thử thách xảy ra trong cuộc sống. Đó là một phần tất yếu của cuộc đời mà mỗi người cần phải đối diện và sẵn sàng vượt qua.
Câu 4: Hs bày tỏ quan điểm theo suy nghĩ riêng của bản thân.
+ Đồng ý: Tương lai phụ thuộc vào suy nghĩ và hành động trong hiện tại. Sống với hiện tại là chuẩn bị những điều tốt đẹp trong cuộc sống.
+ Không đồng ý: Tương lai hoàn toàn có thể dự tính được nếu có kế hoạch. Phải chuẩn bị đầy đủ những hành trang và năng lực để khi có cơ hội chúng ta luôn sẵn sàng.

II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1: (2,0 điểm)
Đoạn văn có bố cục rõ ràng, lôgic, có thể có nhiều ý khác nhau nhưng cần đảm bảo một trong các ý sau:
+ Lựa chọn tâm lí phù hợp, coi những khó khăn tất yếu như lá rụng hàng ngày. Đó là một cơ hội để thành công dành cho người có đủ bản lĩnh.
+ Lạc quan về tương lai vì sau lá rụng, chồi non sẽ mọc lên và đem lại những sức sống mới.
+ Kiên nhẫn, bền bỉ để làm tốt công việc hàng ngày đem lại những giá trị cho cuộc sống.
+ Chuẩn bị một hành trang đầy đủ để đón nhận những thử thách trước mắt.
Câu 2: (5,0 điểm)
1. Mở bài
– Giới thiệu vấn đề nghị luận
Tập thơ Việt Bắc là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác thơ của Tố Hữu nói riêng, của thơ kháng chiến chống Pháp nói chung. Mối tình giữa Việt Bắc và người cán bộ cách mạng được Tố Hữu diễn tả như một mối tình riêng. Buổi chia ly đầy lưu luyến phảng phất buổi chia tay của những đôi lứa trong ca dao xưa nay.
– Dẫn ra vấn đề cần nghị luận
Có thế nói, Việt Bắc là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca,thế hiện ân tình sâu nặng, thủy chung của nhà thơ đối với căn cứ địa Cách Mạng cả nước. Vì thế có ý kiến cho rằng Có ý kiến cho rằng: “Tố Hữu đến với thơ và Cách mạng cùng một lúc. Con đường thơ ca của Tố Hữu bắt đầu gần như đồng thời với con đường hoạt động Cách mạng”. Điều đó được thể hiện rõ nét qua hai đoạn thơ dưới đây:
2. Thân bài
2.1. Khái quát chung
– Tố Hữu là nhà thơ lớn của nền thơ ca Việt Nam hiện đại, là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Thơ Tố Hữu được coi là thi sử của cách mạng dân tộc
– Tập thơ Việt Bắc là đỉnh cao trong sự nghiệp thơ Tố Hữu. Trong đó “Việt Bắc” là thành công xuất sắc. Tác phẩm là bản hùng ca về cuộc kháng chiến 9 năm gian lao mà anh dũng, là bản tình ca ân nghĩa thủy chung giữa cán bộ miền xuôi và đồng bào Việt Bắc.
– Hai đoạn thơ trích dẫn dưới đây là đoạn đặc sắc, thể hiện rõ nét cảm xúc thơ, phong cách thơ Tố Hữu
2.2 Giải thích
Phong cách nghệ thuật của thơ Tố Hữu trong bài thơ Việt Bắc được thể hiện chủ yếu trên ba bình diện sau đây: “một điểm nhìn nghệ thuật thiên về khuynh hướng sử thi trữ tình, chính trị; một tiếng thơ tâm tình ngọt ngào, tha thiết; một tiếng thơ đậm đà tính dân tộc”.
+ Điểm nhìn thiên về khuynh hướng sử thi, trữ tình, chính trị trong bài thơ Việt Bắc được thể hiện qua đề tài, chủ đề của bài thơ khi tái hiện thành công một giai đoạn lịch sử đầy gian khổ nhưng vẻ vang của cách mạng và kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc nay đã trở thành kỉ niệm sâu nặng trong lòng người.
+ Sự gắn bó giữa miền ngược và miền xuôi trong một viễn cảnh hòa bình tươi sáng của đất nước và kết thúc bằng lời ca ngợi công ơn của chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng đối với dân tộc. nói cách khác, các sự kiện, các vấn đề của đời sống cách mạng, lí tưởng và chính trị trong “mười lăm năm ấy” qua trái tim nhạy cảm của nhà thơ đều trở thành cảm hứng thực sự.
+ Điểm nhìn nghệ thuật mang tính sử thi của nhà thơ đã nâng các nhân vật trữ tình trong bài thơ thành những con người nhân danh cộng đồng, nhân danh Đảng và dân tộc.
2.2. Cảm nhận về hai đoạn thơ
a. Đoạn thơ thứ nhất:
– Tái hiện những tháng ngày kháng chiến thiếu thốn gian khổ nhưng vẫn ngời sáng ý chí và tinh thần quyết tâm của quân dân Việt Bắc
+ Cặp đại từ “mình – ta” thể hiện tình cảm thương mến, ngọt ngào, tha thiết
+ Điệp từ “có nhớ” gợi sự hồi tưởng, gợi nhớ những tháng ngày kháng chiến gian khổ đồng bào Việt Bắc và cán bộ miền xuôi cùng nhau chia sẻ
+ Nhớ thiên nhiên Việt Bắc mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù , câu thơ đã đặc tả được cảnh thiên nhiên hoang sơ, thời tiết khắc nghiệt nơi núi rừng Việt Bắc, tuy khung cảnh có chút ảm đạm nhưng vẫn mang đậm chất trữ tình, thơ mộng, phóng khoáng và hùng vĩ.
+ Mình và ta còn phải đối diện với cuộc sống thiếu thốn, đầy gian khổ miếng cơm chấm muối.
+ Hình ảnh hoán dụ mối thù nặng vai, gợi liên tưởng đến mối thù sâu nặng của nhân dân đối với những kẻ thù dân tộc.
=> Nhà thơ bộc lộ tâm trạng bồi hồi xúc động, từ đó tri ân đồng bào Việt Bắc đã đồng cam cộng khổ, hết lòng vì cách mạng, vì kháng chiến. lời nhắc nhở kín đáo của người ở lại về một thời rất đỗi tự hào, mình và ta đã cùng sát cánh bên nhau, cùng nhau tiêu điệt kẻ thù chung, giành lại độc lập tự do và đem đến cho nhân dân cuộc sống hạnh phúc, ấm no.
b. Đoạn thơ thứ hai:
– Tái hiện những tháng ngày quân dân Việt Bắc quật khởi hào hùng, những chiến thắng dồn dập dội về. Việt Bắc trở thành điểm hội tụ niềm vui muôn phương.
+ Hình ảnh "quân đi" rất đẹp, đẹp trong đội ngũ điệp điệp trùng trùng như một sức mạnh vô tận, đẹp trong "ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan" gợi nhớ hình ảnh đầu súng trăng treo trong thơ Chính Hữu. Cái ánh sao ở đây vừa như gần và thân quen với mũ nan của anh, lại như rực sáng lí tưởng trên đầu mũi súng. Một hình ảnh vừa hiện thực vừa lãng mạn, gợi nhiều liên tưởng đẹp về anh bộ đội cụ Hồ.
+Hình ảnh những đoàn dân công đỏ đuốc đi trong đêm là đúng với hiện thực. Nhưng với ánh đuốc đỏ rực ấy cùng với muôn tàn lửa bay thì lại lãng mạn biết bao. Có khác gì một hội hoa đăng! Còn bước chân nát đá là bước chân của những con người đạp bằng mọi chông gai để đi tới. Lấy ý từ ca dao "trông cho chân cứng đá mềm", Tố Hữu đã sáng tạo nên một hình ảnh vừa quen thuộc vừa mới lạ để ngợi ca sức mạnh của những con người chiến thắng.
+ Hình ảnh những đoàn xe ra trận mà đèn pha bật sáng quét sạch màn sương đêm dày thăm thẳm của núi rừng Việt Bắc. Rất hiện thực mà cũng rất lãng mạn. Đằng sau cái nghĩa thực, câu thơ còn mang nghĩa bóng - nghĩa tượng trưng trong một hình ảnh lạc quan phơi phới.
+ Cảm hứng ngày mai đã lên từ trong đêm dậy thăm thẳm nhờ đèn pha bật sáng, nhờ sức con người toả sáng. Bởi họ đã cầm chắc chiến thắng trong tay ngay từ khi mới xuất quân. Câu thơ để lại nhiều dư vang về một cảnh ra quân hoành tráng, đầy hào khí.
+ Một loạt địa danh được gọi tên gợi nhớ những chiến công lừng lẫy của quân và dân Việt Bắc dội về từ muôn nẻo đường.
+ Giọng điệu thơ nhanh, dồn dập thể hiện niềm vui sướng tự hào.
+ Nghệ thuật điệp linh hoạt biến hóa: Điệp từ “vui” được lặp đi lặp lại nhiều lần gợi lên những đợt sóng tình cảm trào dâng cho thấy niềm vui bao trùm không gian Việt Bắc và ngân nga trong lòng quân và dân cả nước.
=> Bộc lộ cảm xúc hân hoan phấn chấn tự hào. Tinh thần đoàn kết, đồng cam cộng khổ, ý chí quyết tâm sắt đá đã tạo nên sức mạnh để quân dân Việt Bắc chiến đấu và chiến thắng.
2.3. Nhận xét về sự vận động cảm xúc thơ Tố Hữu qua hai đoạn thơ
+ Qua hai đoạn thơ cảm xúc thơ có sự vận động rõ nét: từ trữ tình sâu lắng đến hân hoan hào hùng, tự xúc động ngậm ngùi đến tươi vui rạng rỡ, từ cảm nhận sự gian khổ đến niềm vui chiến thắng ngập tràn.
+ Từ đó độc giả hình dung được về sự vận động phát triển của cách mạng Việt Nam, về các giai đoạn của cuộc kháng chiến, trân trọng sự đóng góp hi sinh của đồng bào Việt Bắc cho kháng chiến
+ Từ sự vận động cảm xúc thơ Tố Hữu, độc giả nhận ra đặc điểm thơ Tố Hữu: Lối thơ trữ tình – chính trị. Mọi cung bậc cảm xúc tâm trạng đều xuất phát từ những vấn đề chính trị, cách mạng của dân tộc của thời đại
+ Nghệ thuật thể hiện: Bút pháp từ trữ tình sâu lắng đến sử thi hào hùng, giọng điệu từ bồi hồi xúc động đến lạc quan tin tưởng, ngôn từ hình ảnh từ đặc tả biểu tượng đến những địa danh được lịch sử hóa.
3. Kết bài
– Hai đoạn thơ đặc sắc góp phần tạo nên thành công của Việt Bắc, góp phần sáng tỏ ý nghĩa hùng ca – tình ca của Việt Bắc
– Tố Hữu xứng đáng được vinh danh là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam
 
Top Bottom