[Tác phẩm lớp 12] Ai đã đặt tên cho dòng sông?

xuanle17

Cựu Mod Ngữ Văn
Thành viên
14 Tháng chín 2018
804
1,014
181
25
Thừa Thiên Huế
Đh sư phạm huế
[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG?
- Hoàng Phủ Ngọc Tường –
I. Giới thiệu chung
1. Tác giả:

- Là người con Quảng Trị thế nhưng phần lớn cuộc đời HPNT lại gắn bó với Huế.
- Huế như quê hương thứ hai của ông mang đầy niềm thương và nỗi nhớ trong tâm trí của tác giả.
2. Tác phẩm:
- Ai đã đặt tên cho dòng sông? Là một trong những bài bút kí xuất sắc nhất của HPNT.
- Bài kí mang cái tối giàu tình cảm, suy tư, hướng nội, lối hành văn súc tích, tài hoa, mê đắm.
II. Nội dung cần phân tích
1. Hình tượng sông Hương:
a) Trong không gian:
- Thượng nguồn:

* Hệ thống từ khóa:
+ Bản trường ca, cô gái Digan – sở hữu vẻ đẹp mạnh mẽ
+ Người mẹ - dịu dàng, bí ẩn
- Cách đồng châu hóa:
+ Đổi dòng liên tục, những đường cong mềm – băn khoăn kiếm tìm đường đi
+ Mềm như lụa, sắc ( xanh thẳm, sớm xanh - trưa vàng – chiều tím) – mềm mại, huyền ảo
+ Vẻ đẹp trầm mặc, triết lí, cổ thi
*Phân tích chi tiết:
Ở đoạn văn này, tác giả đã sử dụng thành công nhiều thủ pháp nghệ thuật khác nhau:
+ So sánh: như một bản trường ca dài, đủ mọi chương đoạn, với những cung bậc cảm xúc mãnh liệt, vừa hào hùng, vừa say đắm (rầm rộ, mãnh liệt, cuộn xoáy, dịu dàng, say đắm…, gắn với đại ngàn Trường Sơn đầy những đáy vực bí ẩn, những ghềnh thác dữ dội, những dặm dài chói lọi của hoa đỗ quyên…)
+ Nhân hoá: như một cô gái Digan: phóng khoáng và man dại, có bản lĩnh gan dạ, tâm hồn tự do và trong sáng.
+ Đối lập: ra khỏi rừng già, sông Hương như muốn giấu kín “một nửa cuộc đời và con người” mình, chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái, đóng kín cửa rừng, ném chìa khoá vào hang đá… để đến với đồng bằng, trở thành “người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở với một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ”…
Chặng đường gian truân trước khi đến với kinh thành Huế mới bộc lộ phần tâm hồn thẳm sâu của sông Hương, mới giúp ta hiểu đầy đủ bản chất của dòng sông này. Đi giữa lòng Trường Sơn, sông Hương ở đầu nguồn có vẻ đẹp “phóng khoáng và man dại”, như là “bản năng của rừng già” với sức sống mãnh liệt, hoang dại nhưng cũng dịu dàng và say đắm. Tác giả kết luận “Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”.. Nếu không trằm cả tâm hồn trong khuôn mặt cuộc đời cùng với đất trời sông nước của Huế, thật khó có thể viết được về sông Hương của Huế như HPNT với tất cả sự mê đắm hào hoa. Những liên tưởng tự do phóng khoáng của một tâm hồn dạt dào chất thi sĩ, HPNT càng khiến dòng sông trở nên mạnh mẽ và đắm say, dịu dàng và bí ẩn, vừa quyết đoán, bản lĩnh, vừa nhạy cảm và rất đỗi mơ màng...
- Vào thành phố Huế:
* Từ khóa:
+ Vui tười, yên tâm (nhân hóa) – quan hệ gắn bó giữa sông hương và Huế
+ Uốn cánh cung mềm như “tiếng vâng” không nói của tình yêu (so sánh) – nét e ấp, dịu dành như một cô gái Huế
+ Điệu chảy lặng lờ (điệu slow tình cảm)
* Phân tích chi tiết:
- Sông Hương tìm đến với Huế như là một cô gái trong cuộc tìm kiếm có ý thức để đến với người tình trong mộng của mình. Hiểu biết về địa lí đã giúp tác giả miêu tả tỉ mỉ về sông Hương với hình ảnh: “Chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”, “ dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé bằng con thoi”. Cảnh đẹp như bức tranh có đường nét, có hình khối: “Nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo”… “Dư vang của Trường Sơn” vẫn đọng lại ở cô gái – dòng sông này với nét tính cách can đảm “vượt qua lòng vực sâu, trôi đi giữa hai đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột…”. Trên hành trình ấy, sông Hương phô diễn vẻ đẹp dịu dàng, duyên dáng, xinh xắn, mềm mại, đồng thời là vẻ đẹp của lòng can đảm, sự đắm say…
- Sông Hương không chỉ bộc lộ mình, mà còn khám phá vẻ đẹp của “thành phố tương lai của nó”, khi có sự gặp gỡ tiền định:
+ Đó là vẻ đẹp sống động, tươi tắn, lãng mạn của cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại (như người đẹp được người tình mong đợi đến đánh thức khỏi giấc ngủ mơ màng…một câu văn xuôi đẫm màu cổ tích, thấm đẫm chất thơ.)
+ Đó là vẻ đẹp đa màu mà biến ảo của nền trời Tây Nam thành phố: “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”, được tạo thành do sự phản quang của dòng sông khi trôi qua những ngọn đồi sừng sững, gợi nhớ cái vẻ đa tình kín đáo của người con gái nơi đây, mãi mãi mời gọi ai kia còn phải kiếm tìm.
+ Đó còn là vẻ đẹp dường như được phong kín trong giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa gắn với những rừng thông u tịch, trong niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ gắn với tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga…
- Đến với thành phố tương lai, soi mình trong gương mặt thành phố cổ kính này, sông Hương dường như cũng mang một vẻ đẹp mới: vẻ đẹp trầm mặc gợi liên tưởng đến triết lý, đến cổ thi…Ở đây có nét gần gũi với liên tưởng của Nguyễn Tuân (như một bờ tiền sử, như một nỗi niềm cổ tích…). Song điểm độc đáo khác biệt là liên tưởng này vẫn gắn với vẻ đẹp của sông Hương như một cô gái trong tình yêu (dịu dàng, kín đáo và sâu lắng ), chứ không như Sông Đà có cả vẻ đẹp nam tính và cả “quái tính” khi gầm thét cuộn sôi...
“Gương mặt kinh thành” của sông Hương khi đi qua thành phố Huế:
- Đó là dòng sông vui tươi và duyên dáng trong niềm hạnh phúc được sống trong tình yêu, rất tin tưởng vào người yêu, và gắn bó, giao hoà với người mình yêu:
+ Nó chảy qua những biền bãi xanh biếc
+ Nó kéo một nét thẳng thực yên tâm
+ Nó uốn mình khi nhìn thấy chiếc cầu trắng của Thành phố “ In ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non” - Một so sánh cho thấy hết vẻ yêu kiều của dòng sông, vẻ trắng trong duyên dáng đa tình của con người Huế. Chợt nhớ “Mày ai trăng mới in ngần” trong câu thơ Kiều của Nguyễn Du...
+ Giáp mặt thành phố ở cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, “như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu - Một so sánh đẹp đến nao lòng, trước và sau HPNT, chắc không ai nói được? Nó ngọt ngào êm dịu quá đỗi, mà cũng hư ảo và quá đỗi mong manh. Có cảm giác như, tiếng vâng không nói kia, tay phàm chạm vào là tan mất, vĩnh viễn không bao giờ ta được thấy lại lần thứ hai trong đời...Nó rất Huế, rất Việt Nam, của một thời chưa xa vẫn còn vang bóng, lẩn khuất đâu đây trong hồn con gái Việt dịu dàng
+ Đó còn là dòng sông mang tính cách Huế, với điệu chảy lặng lờ gợi liên tưởng đến “một điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”: Ôi “Con sông dùng dằng con sông không chảy/ Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”(Thu Bồn); Rồi “ Con sông nửa thực nửa mơ? Nửa mong Lí Bạch nửa chờ Khuất Nguyên” (Nguyễn Trọng Tạo); dòng sông cứ chùng chình như chờ, như đợi, làm thức dậy bao mong mỏi lặng thầm, trữ tình và êm ả như một điệu Van...
+ Liên tưởng tương phản: sông Hương qua Huế ( như một mặt hồ yên tĩnh) với sông Nêva qua cung điện Pêtecbua để ra bể Ban-tích (như một đoàn tàu tốc hành bằng thuỷ tinh, như những chiếc thuyền xinh đẹp đang băng băng – “một giấc mơ lộng lẫy của tuổi dại”) + Liên tưởng tương đồng: tôi cuống quýt, tôi ngẩn ngơ…với Hê ra clit đã khóc suốt đời… vì dòng sông trôi nhanh
- Khoảnh khắc “chùng lại” của sông nước ấy khiến cho sông Hương như là hiện thân của vẻ đẹp Huế “trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”: tài hoa, sâu lắng, mang sức quyến rũ mãnh liệt, để lại ấn tượng không thể phai mờ.
- Giã từ thành phố:
* Từ khóa:
+ Đột ngột quay lại -> tâm trạng lưu luyến, chùng chùng chình như không muốn rời xa – Sông Hương chung tình với Huế như mối tình Kim – Kiều, như trái tim người dân dành cho quê hương.
Qua hình tượng sông Hương chúng ta khám phá được một nét đẹp trong tâm hồn người dân cố đô: Rất phóng khoáng, đa tình nhưng cũng rất dịu dàng, chung thủy.
* Phân tích chi tiết:
- Dòng sông lưu luyến ra đi “giữa màu xanh biếc của tre trúc và những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ”: Tình cảm vẫn vẹn nguyên, tươi tắn, trong sáng, tinh khôi.
- Dường như sông Hương không muốn xa thành phố: “Rồi như sực nhớ lại một điều gì đó chưa kịp nói. Nó đột ngột đổi dòng rẽ ngoặt sang hướng Đông Tây để gặp lại thành phố ở góc Bao Vinh…khúc quanh này thật bất ngờ…Đấy là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”.
- Sông Hương trở lại “để nói một lời thề trước khi về biển cả”. Tác giả liên hệ “Lời thề ấy vang vọng khắp khu vực sông Hương thành giọng hò dân gian, ấy là tấm lòng người dân Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở”. Tác giả so sánh sông Hương với Huế giống như nàng Kiều với Kim Trọng trong đêm tình tự…Những câu văn đẹp hơn bất cứ bài thơ nào ...
=> Vẻ đẹp TN của sông Hương hiện lên với nhiều vẻ khác nhau, qua những phát hiện tinh tế và cách diễn đạt tài hoa của tác giả. Đặc biệt, nghệ thuật nhân hoá, trí tưởng tượng kì ảo… giúp tác giả nhìn sông Hương như một cô gái Huế với vẻ đẹp riêng, với nét tính cách, tâm hồn và nét duyên riêng (thiếu nữ tài hoa, dịu dàng mà sâu sắc, đa tình mà kín đáo, lẳng lơ mà rất mực chung tình, thích trang sức mà không loè loẹt phô trương…)
b) Trong thời gian
* Từ khóa:
- Dòng sông của thời gian nhân vang sử thi – cỏ lá xanh biếc:
+ Thời vua Hùng: bảo vệ biên giới
+ TK XVIII: soi bóng kinh thành Phú Xuân
+ Tk XIX : bi tráng
+ TK XX: chiến công
- Sông Hương vừa là 1nhân vật vừa là 1 chứng nhân của lịch sử
+ Khi tổ quốc cần: hiến đời mình ...
+ Trong cuộc sống đời thường: trở về làm người con gái dịu dàng của đất nước
* Phân tích chi tiết:
- Tên của dòng sông Hương được ghi trong “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi; “Nó được ghi là Linh giang”
- Dòng sông ấy là điểm tựa, bảo vệ biên cương thời kì Đại Việt.
- Thế kỉ XVIII, nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân, gắn liền với tên tuổi của người anh hùng Nguyễn Huệ.
- Sông Hương đọng lại đến bầm da, tím máu “nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ XIX”.
- Sông Hương đi vào thời đại của Cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển.
- Dòng sông chứng kiến cuộc nổi dậy tổng tiến công tết Mậu Thân 1968.
Như vậy, sông Hương đã gắn liền với lịch sử của Huế, của dân tộc. Sông Hương có đóng góp đối với lịch sử đấu tranh bảo vệ tổ quốc và đối với di sản văn học nghệ thuật của dân tộc.
c) Trong góc nhìn văn hóa:
* Từ khóa:
- Thi ca: Dòng sông không lặp lại trong miền cảm hứng của các nghệ sĩ.
- Âm nhạc:
+ Như một tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya
+ Toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế sinh thành trên mặt nước Sông Hương.
Bằng vốn am hiểu sâu rộng, hình ảnh so sánh, nhân hóa, sự kết hợp giữa miêu tả với suy tư, bình luận, tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp đa chiều, đa dạng của sông Hương. Đó là dòng sông tượng trưng cho vẻ đẹp Văn hóa Huế, tâm hồn con người xứ Huế.
* Phân tích chi tiết:
- Tác giả cho có một dòng thi ca về sông Hương. Đó là dòng thơ không lặp lại mình:
- “Dòng sông trắng - lá cây xanh” (Chơi xuân - Tản Đà) – trên trang văn HPNT, câu thơ Tản Đà như một nét chấm phá gợi cảm, đa tình, tươi tắn và mơ mộng biết bao! Dường như giữa màu cỏ lá xanh biếc của một nhà văn Huế và dòng sông trắng lá cây xanh của thi sĩ núi Tản sông Đà có sự tương giao đồng điệu của những tâm hồn nghệ sĩ nhạy cảm với từng màu xanh sắc biếc của thiên nhiên.
- Nhà văn cũng làm sống dậy một sông Hương hùng tráng bất tử trong thơ Cao Bá Quát Trường giang như kiếm lập thanh thiên …
- Tinh tế hơn, tác giả cảm nhận trong không gian Huế và dòng sông Hương “Nỗi quan hoài vạn cổ”; nỗi buồn của kẻ “ Dừng chân đứng lại trời, non, nước” trong thơ Bà Huyện Thanh Quan…
- Và một lần nữa, tác giả lại đặt sông Hương bên những câu Kiều, và từ thân phận nàng Kiều mà vặn mình gợi lại dòng Hương giang “Trời trong veo/ Nước trong veo” với những phận Kiều đã được phục sinh trong thơ Tố Hữu…
- Ngoài ra, tác giả không thể không gắn sông Hương với âm nhạc cổ điển Huế: “Sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc Một hình ảnh vừa thể hiện được vẻ đẹp bí ẩn, âm vang của sông Hương và kinh thành Huế, vừa thể hiện vẻ tài hoa, sâu lắng của đất cố đô và chất tâm hồn con người cùng cuộc sống nơi đây. “Quả đúng vậy, toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được hình thành trên mặt nước của dòng sông này”. Với cách so sánh này, sông Hương còn có thêm vẻ trang trọng hào hoa cổ điển, bởi HPNT còn khiến ta không nguôi nhớ đến người con gái trên bến Tầm Dương thuở nào trong thơ Bạch Cư Dị...
+ Tác giả tưởng tượng: “trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”. Phải có độ nhạy cảm về thẩm âm, hiểu biết về âm nhạc của xứ Huế, tác giả mới có sự liên tưởng này.
+ Với ngòi bút tài hoa cộng với sự rung cảm mạnh mẽ, HPNT nhớ tới Nguyễn Du: “Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này với một phiến trăng sầu. Và từ đó, những bản đàn đã đi suốt đời Kiều”. Có lẽ ông đã diễn tả điệu Tứ đại cảnh của Huế qua tiếng đàn của Kiều “Trong như tiếng hạc bay qua...”. Tuy nhiên, sự liên tưởng chủ yếu dựa trên sự tương đồng giữa cảnh sắc thiên nhiên và tính cách nàng Kiều trong thơ Nguyễn Du với cảnh và người nơi sông Hương núi Ngự.
2. Hình tượng cái tôi của tác giả:
- Đó là cái tôi tài hoa, uyên bác (tài hoa trong cảm nhận, trong cách vận dụng hiểu biết)
- Giọng văn trữ tình, rất nhẹ nhàng, giàu chất thơ, chất chính luaajn
- Tình cảm gắn bó sâu nặng với đất và người cố đô.
3. Phong cách nghệ thuật của tác giả:
- Sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú, sự uyên bác về các phương diện địa lí, lịch sử, văn hóa, nghệ thuật.
- Ngôn ngữ phong phú, giàu hình ảnh, bộc lộ cảm xúc, sử dụng nhiều biện pháp tu từ như so sánh, ần dụ, nhân hóa.
- Có sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc và trí tuệ, chủ quan và khách quan. (Chủ quan là sự trải nghiệm của bản thân. Khách quan là đối tượng miêu tả - dòng sông Hương).
 

baochau1112

Cựu Phụ trách nhóm Văn | CN CLB Khu vườn ngôn từ
Thành viên
6 Tháng bảy 2015
6,549
13,982
1,304
Quảng Nam
Vi vu tứ phương
Thực tình thì mình nghĩ một topic với một nội dung đầy đủ sẽ không thể dừng lại là cung cấp kiến thức đâu. Do vậy, sao cậu không thử thêm vào những bài tập tự luyện và giải chúng để hướng dẫn các học sinh trên HMF này luôn?
 
Top Bottom