giúp mình với

A

anhtraj_no1

cho mình vài bài phân tích bài người cầm quyền khôi phục uy quyền đã dùng tình thương ntn để khôi phục uy quyền

bài làm​


V. Huy-gô là nhà thơ, nhà tiểu thuyết, nhà soạn kịch lãng mạn nổi tiếng của Pháp. Sống trong một thế kỉ đầy những biến cố bão táp, V. Huy-gô trở thành “hiện thân của chủ nghĩa lãng mạn”, nhà văn của những khát vọng và yêu thương sâu xa nhất của con người. Bộ tiểu thuyết Những người khốn khổ được coi là một kiệt tác của văn chương lãng mạn, một bức thông điệp bày tỏ những mơ ước, khát vọng về một xã hội tốt đẹp, công bằng và yêu thương hơn.

Trong đoạn trích, người đọc thấy có sự phân chia hai tuyến nhân vật khá rõ. Đối lập với một Gia-ve hung hãn, tàn ác là một Giăng Van-giăng cương nghị, kiên quyết. Khi quyết định ra tự thú cứu Săng-ma-chi-ơ, Giăng Van-giăng đã trở thành một kẻ tội phạm bị truy đuổi của Gia-ve nhưng ông vẫn hoàn toàn bình tĩnh. Trong khi Gia-ve “phá lên cười, cái cười ghê tởm phô ra tất cả hai hàm răng”, “nắm lấy cổ áo Giăng Van-giăng thì Giăng Van-giăng “không cố gỡ bàn tay hắn”. Trong khi người ta gọi Gia-ve là “ông thanh tra” thì Giăng Van-giăng chỉ gọi hắn với cái tên “Gia-ve”. Con người Giăng Van-giăng dường như không chịu bất cứ một sự uy hiếp nào. Đặc biệt, sau khi Phăng-tin chết, thái độ của Giăng Van-giăng đối với Gia-ve càng kiên quyết hơn. Ông “cậy bàn tay” Gia-ve như “cậy bàn tay trẻ con”. Ông “lăm lăm cái thanh giường” và “nhìn Gia-ve trừng trừng”. Không chỉ vậy, lời nói của Giăng Van-giăng đầy nghiêm khắc : “’Tôi khuyên anh đừng quấy rầy tôi lúc này”. Lời khuyên nhưng đã hàm ý trong đó một sự đe dọa, phản kháng – một lời cảnh cáo của Giăng Van Giăng trước Giave. Có lẽ chính thái độ bình tĩnh và kiên quyết ấy của Giăng Van Giăng đã làm cho Giave run sợ. Một “ông thanh tra” được quyền bắt bớ đánh đập, đe doạ người khác lại bị một tên tù khổ sai uy hiếp. Đó cũng là sự chiến thắng của cái thiện đối với cái ác. Trong lời nói của Giăng Van-giăng, người đọc cảm nhận được vị thế kiêu hãnh ngạo nghễ của một “ông thị trưởng” của quyền lực chính nghĩa. Đây chính là hình ảnh của một “người cầm quyền” đã khôi phục được uy quyền của mình. Kẻ thuộc hạ dưới trướng của Giăng Van-giăng cuối cùng cũng phải run sợ, cúi đầu.

Ở đoạn trích, người đọc cũng thấy đối lập với một Gia-ve hung ác là một Giăng Van-giăng giàu tình thương. Bỏ mặc sự đe doạ của Gia-ve, Giăng Van-giăng vẫn lo lắng và săn sóc cho Phăng-tin. Lời “cầu xin” của Giăng Van-giăng : “Xin ông thư cho ba ngày ! Ba ngày để đi tìm đứa con cho người đàn bà đáng thương kia ! Phải trả giá thế nào tôi cũng chịu. Nếu muốn, ông cứ đi kèm tôi cũng được” đã biểu hiện rõ tấm lòng yêu thương cao cả của ông. Tấm lòng cảm thông của Giăng Van-giăng trước hoàn cảnh đáng thương của Phăng-tin khiến người đọc cảm động. Đó là một nghĩa cử đẹp đẽ đáng trân trọng. Để rồi ngay chính Gia-ve cũng phải ngạc nhiên : “Á, à. Tốt thật ! Tốt thật đấy !”. Hành động của Giăng Van-giăng là sự toả sáng của tinh thần nhân văn cao cả. Trong khốn khổ hiểm nguy, lòng tốt và tình yêu thương của con người vẫn được “thăng hoa” rực rỡ.
Phăng-tin chết, Giăng Van-giăng “xót thương khôn tả”, ông “tì khuỷu tay lên thành giường, bàn tay đỡ lấy trán”… Ông ngồi yên lặng, “chẳng nghĩ đến điều gì trên đời này nữa”. Lời nói thì thầm của Giăng Van-giăng có ý nghĩa sâu xa. Người ta không rõ ông nói gì với Phăng-tin. Chỉ biết sau lời nói ấy người ta thấy xuất hiện “một nụ cười không sao tả được hiện trên đôi môi nhợt nhạt và trong đôi mắt xa xăm, đầy ngỡ ngàng của chị khi đi vào cõi chết”. Khuôn mặt Phăng-tin ánh lên một sự thanh thản, giống như là mãn nguyện hạnh phúc. Nụ cười của Phăng-tin là điểm sáng của tác phẩm. Nó làm mờ đi những tăm tối hà khắc, những hung ác bạo ngược. Đó cũng là nụ cười của niềm tin lạc quan và khát vọng chiến thắng không gì dập tắt. Lời thì thầm của Giăng Van-giăng có thể là lời hứa tìm lại đứa con cho Phăng-tin, hay có thể là một viễn cảnh tương lai tươi sáng được mở ra. Dẫu thế nào, người đọc cũng cảm thấy một niềm hạnh phúc lan toả đánh thức tâm hồn người ta. Phăng-tin đi vào cõi chết những cũng chính là đi vào “bầu ánh sáng vĩ đại” – sự giải thoát khỏi đau khổ, hạnh phúc để bước vào sự đổi thay của thế giới, sự chiến thắng của tinh thần nhân văn bất diệt. Đó cũng là bức thông điệp đẹp đẽ của chủ nghĩa lãng mạn Vích-to Huy-gô trong tác phẩm.

Có thể nói Những người khốn khổ là bản anh hùng ca ca ngợi nhân dân, là bản cáo trạng xã hội tư sản với cả một mạng lưới luật pháp, toà án, nhà tù, quân lính, cảnh sát, những kẻ giàu sang, những tên lưu manh,... Chính xã hội tư sản là nguyên nhân gây ra bao cảnh khổ trong nhân dân. Xã hội ấy hiện hình tập trung nhất trong bộ mặt gớm ghiếc và tâm hồn chai cứng của Gia-ve. Tác phẩm nêu rõ tình thương yêu chân chính chỉ có ở những con người nghèo khổ. Huy-gô băn khoăn tìm biện pháp để đem lại hạnh phúc cho những người khốn khổ. Tác phẩm bộc lộ quan điểm của nhà văn chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng, kêu gọi người giàu giúp đỡ người nghèo và chủ trương dùng tình thương yêu để cải tạo con người, cải tạo cái ác.
 
T

tvxqfighting

Tham khảo ạ:
Nhân vật Giăng Van-giăng trong "Người cầm quyền khôi phục uy quyền".

- Là người có tình thương người và nhân đạo.

- Không khuất phục trước cường quyền.

- Thông minh, biết vì cái lợi ích to lớn và cần thiết trước mắt.

Làm rõ:

- Đối với Gia-ve - một tên ác thú.

+ Lúc Phăng-tin còn sống: tên Gia ve hung hãn đến đòi bắt ông, ông nhún nhường, vẫn nhún nhường với hắn - bởi hắn đang nắm trong tay cái bí mật mà ông ko hề muốn hắn nói ra - ông là tên tù nhân những năm trước.
Không cố gỡ tay Gia ve khi hắn túm lấy áo ông mà nhẹ nhàng nói.
Trong khi Gia - ve thô lỗ với những lời nói như đâm dao vào mặt người khác thì ông vẫn giữ thái độ điềm tĩnh, nói những lời nhe nhàng với Gia-ve.
Khổng phải là ông sợ hãi gì hắn mà là bởi ông đang cố gắng để hắn ko nói ra những lời không nên nói - là nói ra ông chính là tên tù nhân những năm trc chứ ko phải là ông thị trưởng đáng kính.
Ông nhún nhường nhưng ko hề run sợ: khi nói với Gia ve ông ko hề xưng là ông thanh tra mà chỉ gọi là Giave.
--> rất thông minh và khôn khéo khi chủ tâm nói nhẹ nhàng với Gia ve để giữ kín bí mật ông là một tên tù nhân năm xưa với Phăngtin.

+ Khi Phăng-tin mất: ông cho rằng Giave chính là kẻ gián tiếp gây nên cái chết của Phăngtin khi nói về cái bí mật đó.
Ông nhổ cái thanh sắt rồi dọa nạt tên Giave, ông mạnh mẽ hơn và không hề sợ hãi gì trước thái độ dọa nạt của Gia ve nữa. --> lúc đó, thái độ sợ hãi của giave đã thể hiện sự chiến thắng của cái thiện với cái ác.
--> Sự thay đổi về diễn biến tâm lý và hành đông bởi lúc đó Phăng tin đã mất, điều bí mật đã được nói ra bởi miệng của tên độc ác và vô nhân tính Giave, thì ông đã ko còn gì để mất nữa.
Những điều mà ông kìm nén cho một tên nhẫn tâm đã ko còn nữa, bây giờ điều cần là phải nói nặng với ông ta, để có thể làm những điều mà ông cần làm trước khi đi theo hắn.

- Đối với Phăng-tin - một người phụ nữ đang bệnh:

+ Khi Phăng-tin còn sống: Giăng Van-giăng đã nhiều lần động viên, trấn tĩnh Phăng-tin, bởi đương lúc Phăngtin đang bệnh nặng.
Ông cố gắng thật nhiều, nhẹ nhàng thật nhiều để không ảnh hưởng đến Phăngtin.
--> sự quan tâm, chăm sóc đói với Phăng-tin.

+ Khi Phăng tin mất:
Ông to tiếng với Giave để có thể nói được những lời cuối cùng với Phăngtin dù cô đã mất.
+ Nói những lời cuối cùng với Phăngtin và hưá sẽ tìm được con gái cho cô.
=> cố gắng để cho cô có thể yên lòng.
=> Lòng thương người sâu sắc, đáng kính trọng.

- Và sau đó, ông đi theo Gia ve. Không thể chống cự và ông chờ đến lúc cần thiết nhất.

** Nhan đề cũng nên làm rõ nó tí :D. Người cầm quyền chính là Giăng Van giăng, ông bị Gia ve đến uy hiếp, dọa nạt và sắp bước đến ngưỡng mất đi chức thị trưởng để trở lại là một tù nhân, nhưng trước đó, ông đã khiến cho tên Gia ve - thanh tra - phải sợ hãi. Đó cũng là một điều làm nổi bật tính cách Giăng Van-giăng và ý nghĩa sâu sắc của tác phẩm ^^
 
Top Bottom