Cùng Hàn về thôn Vĩ (Phần 2)
Thế giới lãng mạn là thế giới mà ở đó vai trò của sự cảm hoá được phát huy cao độ, không chỉ là cảm hoá giữa người với người. Chất lãng mạn là khi cần có thể uốn quy luật tự nhiên theo quy luật tình cảm. Câu thơ này cũng là một cặp tiểu đối giữa hai trạng thái của cảnh vật, giữa động và tĩnh, giữa hoạt động và trạng thái cảm xúc. Trong chữ “buồn thiu” ấy, không thể không có một sự cảm nhận cá nhân, một giọng điệu cá nhân. Câu trên, tạo vật chia ly mỗi đường một thứ, câu này cũng là một sự lạc điệu, mỗi thứ mang một tính chất khác nhau. Sự lạc điệu, đối lập chia lìa này của cảnh vật đã phá vỡ vẻ đẹp hài hoà, trọn vẹn, tròn đầy của cảnh vật ở khổ trên. Phần trên là sự hiện thực hoá của cái đẹp lý tưởng, của những gì tròn đầy, viên mãn, thì ở đây, cái đẹp lý tưởng đang bị phai tàn đánh mất.Sáu câu thơ này quy tụ về một điểm: Dự cảm về một vẻ đẹp hài hoà, tự nhiên, trọn vẹn, quý giá của thực tại thôn Vĩ có nguy cơ bị phá vỡ. Đây là điểm bộc lộ quan điểm mĩ học của Hàn Mặc Tử, cũng như của văn học lãng mạn: Sự mong manh của cái đẹp. Xuân Diệu có thể dựng lên cho mình một thiên đường trên mặt đất, một Bồng lai giữa cõi tục trần thế, có thể thấy mùa xuân, tuổi trẻ, tình yêu chính là cái đẹp, cái quý giá; nhưng ông luôn cảm nhận mùa xuân đang qua, tuổi trẻ đang mất, tình yêu đang phai tàn: “Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua”, “Gấp đi em ! Anh rất sợ ngày mai, Đời trôi chảy tình ta không vĩnh viễn !”…. Huy Cận tự mê hoặc mình bằng một đoạn đường thơm đầy hương sắc, tươi tắn, rực rỡ, đầy hạnh phúc, nhưng cũng luôn bàng hoàng, đau đớn trước nguy cơ thời gian, không gian, dòng đời xô bồ làm xói mòn hạnh phúc: “Chân hết đường thì lòng cũng hết yêu”. Trong nhiều bài thơ, nhất là Mùa xuân chín, Hàn Mặc Tử luôn bị day dứt bởi một cảm giác bất an ngấm ngầm trong hiện tại, luôn bị ám ảnh bởi dự cảm về sự mong manh, dễ vỡ, dễ mất của cái đẹp: Cái đẹp trong quá khứ không giữ được đến hôm nay (Chị ấy năm nay còn gánh thóc ! Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?), cái đẹp hôm nay không giữ được đến ngày mai (Ngày mai trong đám xuân xanh ấy ! Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi.). Cả một mùa xuân đang ở độ “chín” nhất (tức là đẹp nhất, hài hoà, trọn vẹn, hạnh phúc và viên mãn nhất) bỗng dường như đột ngột bị cắt ngang, bị phá vỡ khi một tương lai chia ly đã thấp thoáng phía chân trời. Hàn Mặc Tử luôn mang một cảm giác rất mạnh về sự không vĩnh viễn, không bất tử của vẻ đẹp hài hoà, trọn vẹn của hiện thực cuộc sống. Chính vì vậy mà âm hưởng chủ đạo của Đây thôn Vĩ Dạ cũng như của văn học lãng mạn là một niềm bi cảm, một nỗi buồn xót xa tiếc nuối thấm thía, một nỗi buồn của sự hoài vọng sâu thẳm.
Cảnh vật chia lìa, vẻ đẹp hài hoà, trọn vẹn lý tưởng bị phá vỡ, Hàn Mặc Tử (đúng hơn là nhân vật trữ tình) lại khao khát tìm lại vẻ đẹp ấy bằng cách cầu cứu đến một vẻ đẹp khác. Không gian của bài thơ đã mở rộng ra đầy thú vị và mộng ảo khi người thơ gửi lòng đến dòng Hương Giang ở xứ Huế:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?”.
Hai câu thơ đầy trăng và cũng đầy mộng ảo. Vẻ đẹp của sông trăng, thuyền trăng, nhiều người dã nói đến. ở đây, chúng tôi chỉ muốn lưu ý thêm rằng, với Hàn, trăng là hiện thân của vẻ đẹp lý tưởng, vĩnh viễn, là “trăng vàng trăng ngọc”, “chỉ có trăng sao là bất diệt”, “ta sống mãi với trăng sao gấm vóc”. Với Hàn, nơi nào có trăng, có cái dòng chảy sáng láng và thanh khiết ấy, là nơi ấy có hạnh phúc, có niềm vui, có sự viên mãn tròn đầy của sự sống, có đầy ắp tiếng cười tuổi trẻ. Hai con người trong Chơi giữa mùa trăng có khác gì hai thiên thần giữa chốn Eđen tuyệt vời hạnh phúc? Và cũng chính vì thế Hàn mới có thể say trăng, rượt trăng, ngủ với trăng, chơi trên trăng, ưng trăng, uống trăng…. thậm chí nghèo đói thì mặc trăng, ăn trăng, nhưng không bao giờ có thể bán trăng, không bao giờ nỡ bán trăng; chỉ đơn giản bởi đó là những gì đẹp nhất, quý nhất. Nơi nào có trăng, nơi ấy không còn ranh giới giữa thiên đường và trần thế, đi trong đó người ta không thể ý thức được mình đi thuyền trên trời hay dưới nước người ta mới có cảm giác “đã gần tới sông Ngân”, đã đặt chân lên “nước nhược non Bồng, động phủ thần tiên ngàn xưa còn sót lại”. Và đặc biệt, chỉ ở đó con người mới hiện lên với tất cả vẻ đẹp và sự tự do của mình, làm người khác phải bàng hoàng, thảng thốt như không tin vào mắt mình: “Nhưng trời ơi, sao đêm nay chị tôi đẹp đẽ đến thế này? Có phải chị không hả chị?” Chỉ ở đó, người ta mới thật sự thấy mình tự do “được dịp phát triển tất cả”, được “giải thoát cái “ta” của tôi ra khỏi nơi giam cầm của xác thịt”. Đây là thế giới của tinh thần, là cái ánh sáng muôn năm của thiên đường hiện hữu trên mặt đất. Nhưng chỉ có điều nó cũng quá mong manh và ngắn ngủi, bởi vì chỉ cần la to một chút, “những ánh trăng sẽ tan ra bọt mất”, nó chưa phải là “ánh sáng muôn năm” !.
Dài dòng như thế, chúng tôi chỉ muốn lưu ý đến vầng trăng – biểu tượng trong Đây thôn Vĩ Dạ và thơ Hàn Mặc Tử. Do bị ám ảnh bởi những dự cảm về sự phá vỡ, mỏng manh, của vẻ đẹp hài hoà, cân đối, trọn vẹn của hiện thực, trước sự chia lìa của cảnh vật, Hàn khao khát trông chờ vầng trăng như là hiện thân của vẻ đẹp lý tưởng. Trăng là người bạn tri âm tri kỷ hai câu trên, trí tưởng tượng của nhà thơ đã liên tưởng tới mộng ảo với tấm lòng mong ngóng, phấp phỏng chờ đợi ở tương lai (“tối nay”). ánh trăng huyền ảo, với Hàn, có thể có uy lực tái lập lại vẻ đẹp đã mất. Nhưng, do là ý niệm về một thời gian tương lai có tính gấp gáp, cấp bách (“kịp tối nay”) do hình thức là một câu hỏi không lời đáp chắc chắn, nên mong ước tái lập lại vẻ đẹp trọn vẹn ban đầu cũng không có gì đáng tin cậy.
Không còn cách nào khác, cuối cùng, hình tượng khát khao mơ tưởng hướng về một người “khách đường xa”. Thiết nghĩ không cần nhắc lại ở đây, ấn tượng về một không gian với những con người đầy mộng ảo và thi vị. Cũng như hình tượng vầng trăng ở trên, người khách ở đây cũng như một cứu cánh có thể thiết lập lại vẻ đẹp viên mãn ban đầu. Chẳng phải là chỉ cần một người chị, một người trong “đám xuân xanh” ấy không bỏ đi lấy chồng thì mùa xuân sẽ “chín” vĩnh viễn đó sao? Trng sự láy đi láy lại của nhịp thơ, có cả cảm giác về một không gian đầy cách trở, đầy sự chia xa; thậm chí rợn ngợp và bất trắc khôn lường, lại có cả niềm khát khao gặp gỡ đến cháy bỏng. Nhưng tất cả chỉ là ảo vọng. Tôi nghĩ, không nên hiểu Đây thôn Vĩ Dạ chỉ là một bài thơ ca ngợi cảnh đẹp và con người Huế, cũng không nên coi nó là bài thơ tình thuần tuý. Đây thôn Vĩ Dạ trước hết phải là dự cảm về sự mong manh, không vĩnh cửu, dễ vỡ, dễ hư nát của Cái Đẹp (viết hoa) và niềm khao khát đến đau đớn về việc giữ được cái đẹp ấy, cứu vớt được cái đẹp ấy. Cái đẹp ở đây, cũng như ở Thơ Mới, không thể cứu được thế giới, ngược lại, nó cần được nâng niu trân trọng, cần được cứu vớt.