Cảm nhận của anh chị về bài thơ" Tỏ lòng" của pHạm Ngũ Lão.Từ đó liên hệ lí tưởng sống của thanh niê

N

nacub

Last edited by a moderator:
L

lanh_1707_1994

Câu1:chân dung tự hoạ của tác giả
+hoành sóc:cắp ngang ngọn giáo-thế tĩnh-tư thế chủ động tự tin điềm tĩnh của con người có sức mạnh nội lực.Thơ dịch là múa giáo-tư thế động-gợi trình độ thuần thục của nghề cung kiếm trong thao tác thực hành có chút phô trương biểu diễn-dịch chưa thật đạt
+chân dung tráng sĩ được đặt trên nền không gian là giang sơn trên nền không gian là kỉ thu -đây là tư thế của một chiến binh một chiến sĩ vệ quốc dốc lòng dốc sức cho độc lập tự do của dân tộc
=>chaan dung tráng sĩ đã tạo nên một cận cảnh (trong bức tranh thời đại) đẹp uy nghi lẫm liệt như bức tượng đài về người chiến sĩ cảm tử cho đất nước
Câu2:hình ảnh ba quân:3 đạo quân -chỉ quân đội nhà trần.Biện pháp nghệ thật so sánh,phóng đại cường điệu
sức mạnh của quân đội nhà trần ->sức của hổ báo
=>bức nền phía sau chân dung tráng sĩ thể hiện không khí thời đại quyết chiến quyết thắng khí thế hào hùng của quân đội nhà trần hào khí đông a
=>sự kết hợp hình ảnh ở hai câu đầu ->bức tranh thời đại hào khí đông a->cách nhìn của tác giả vừa mang nhãn quan hiện thực khách quan vừa là cảm nhận chủ quan kết hợp yếu tố hiện thực và lãng mạn
 
C

chiechai

ý nghĩa chung là nói lên khí phãch anh hung. thanh nien ngày nay cần co khí phắch ấy để bảo vệ Tổ quỗc
 
H

hatcattrongthienha

cau 1:khắc hoạ vẻ dẹp của ngươiì anh hùng mang tằm vóc sử thi,mợt dũng tướng người tráng sĩ phi thường,oai phong,mang tư thế và tầm vóc của hào khí Đông A.
Câu thơ nguyên tác đã dựng nên một con người cầm ngang ngọn giáo mà trấn giữ non sông,đất nước.Con người ấy xuất hiệnn với:tư thế hiên ngang,chủ động,tự tin;hành động phi thường;tầm vóc vũ trụ.->đó là vẻ dẹp của một con người kì vĩ.Câu thơ dịch không nhũng làm mất đi âm điệu mạnh mẽ,chắc nịch,hào hùng cua câu thơ trong nguên tác mà wan trọng hơn nó đã làm giản đi rất nhiều vóc dáng sử thi of người anh hùng,cầm ngang ngọn giáo đứng giữa non sông vì trách nhiệm với đời,với nc....
Câu2:Hình ảnh qưân đội nhà trần:khí thế hừng hực như vũ bão(phân tích các bien pháp nghệ thuật để thấy rõ)Hình tượng này làm nổi bật hình tượng người anh hùng vệ quốc
Câu 3:chí of người anh hùng
Câu 4:Tâm of người anh hùng
(khi nào rảnh tớ sẽ viết tiếp hộ cậu)
 
L

lanquan610

Triều đại nhà Trần (1226-1400) là một mốc son chói lọi trong 4000 năm dựng nước và giữ nước của lịch sử dân tộc ta. Ba lần kháng chiến và đánh thắng quân xâm lược Nguyên – Mông, nhà Trần đã ghi vào pho sử vàng Đại Việt những chiến công Chương Dương, Hàm Tử, Bạch Đằng… bất tử.

Khí thế hào hùng, oanh liệt của nhân dân ta và tướng sĩ đời Trần được các sử gia ngợi ca là “Hào khí Đông A”. Thơ văn đời Trần là tiếng nói của những anh hùng – thi sĩ dào dạt cảm hứng yêu nước mãnh liệt. “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, “Thuật hoài” ( Tỏ lòng ) của Phạm Ngũ Lão, “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu.v.v… là những kiệt tác chứa chan tình yêu nước và niềm tự hào dân tộc.

Phạm Ngũ Lão (1255-1320) là một danh tướng đời Trần, trăm trận trăm thắng, văn võ toàn tài. Tác phẩm của ông chỉ còn lại hai bài thơ chữ Hán: “Thuật hoài” và “Vãn Thượng tướng Quốc công Hưng Đạo Đại vương”.

Bài thơ “Tỏ lòng” thể hiện niềm tự hào về chí nam nhi và khát vọng chiến công của người anh hùng khi Tổ quốc bị xâm lăng. Nó là bức chân dung tự hoạ của danh tướng Phạm Ngũ Lão.

Hoành sóc giang san kháp kỉ thu

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu

Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.

Cầm ngang ngọn giáo (hoành sóc) là một tư thế chiến đấu vô cùng hiên ngang dũng mãnh. Câu thơ “Hoàng sóc giang sơn kháp kỷ thu” là một câu thơ có hình tượng kỳ vĩ, tráng lệ, vừa mang tầm vóc không gian (giang sơn) vừa mang kích thước thời gian chiều dài lịch sử (kháp kỷ thu). Nó thể hiện tư thế người chiến sĩ thuở “bình Nguyên” ra trận hiên ngang, hào hùng như các dũng sĩ trong huyền thoại. Chủ nghĩa yêu nước được biểu hiện qua một vần thơ cổ kính trang nghiêm: cầm ngang ngọn giáo, xông pha trận mạc suốt mấy mùa thu để bảo vệ giang sơn yêu quý.

Đội quân “Sát Thát” ra trận vô cùng đông đảo, trùng điệp (ba quân) với sức mạnh phi thường, mạnh như hổ báo (tỳ hổ) quyết đánh tan mọi kẻ thù xâm lược. Khí thế của đội quân ấy ào ào ra trận. Không một thế lực nào, kẻ thù nào có thể ngăn cản nổi. “Khí thôn Ngưu” nghĩa là khí thế, tráng chí nuốt sao Ngưu, làm át, làm lu mờ sao Ngưu trên bầu trời. Hoặc có thể hiểu : ba quân thế mạnh nuốt trôi trâu. Biện pháp tu từ thậm xưng sáng tạo nên một hình tượng thơ mang tầm vóc hoành tráng, vũ trụ: “Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu”. Hình ảnh ẩn dụ so sánh: “Tam quân tì hổ…” trong thơ Phạm Ngũ Lão rất độc đáo, không chỉ có sức biểu hiện sâu sắc sức mạnh vô địch của đội quân “Sát Thát” đánh đâu thắng đấy mà nó còn khơi nguồn cảm hứng thơ ca; tồn tại như một điển tích, một thi liệu sáng giá trong nền văn học dân tộc:

-“Thuyền bè muôn đội;

Tinh kỳ phấp phới

Tỳ hổ ba quân, giáo gươm sáng chói…” (Bạch Đằng giang phú)

Người chiến sĩ “bình Nguyên” mang theo một ước mơ cháy bỏng: khao khát lập chiến công để đền ơn vua, báo nợ nước. Thời đại anh hùng mới có khát vọng anh hùng! “Phá cường địch, báo hoàng ân” (Trần Quốc Toản) – “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo” (Trần Thủ Độ). “…Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng” (Trần Quốc Tuấn)… Khát vọng ấy là biểu hiện rực rỡ những tấm lòng trung quân ái quốc của tướng sĩ, khi tầng lớp quý tộc đời Trần trong xu thế đi lên đang gánh vác sứ mệnh lịch sử trọng đại. Họ mơ ước và tự hào về những chiến tích hiển hách, về những võ công oanh liệt của mình có thể sánh ngang tầm sự nghiệp anh hùng của Vũ Hầu Gia Cát Lượng thời Tam Quốc. Hai câu cuối sử dụng một điển tích (Vũ Hầu) để nói về nợ công danh của nam nhi thời loạn lạc, giặc giã:

“Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”

“công danh” mà Phạm Ngũ Lão nói đến trong bài thơ là thứ công danh được làm nên bằng máu và tài thao lược, bằng tinh thần quả cảm và chiến công. Đó không phải là thứ “công danh” tầm thường, đậm màu sắc anh hùng cá nhân. Nợ công danh như một gánh nặng mà kẻ làm trai nguyện trả, nguyện đền bằng xương máu và lòng dũng cảm. Không chỉ “Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”, mà tướng sĩ còn học tập binh thư, rèn luyện cung tên chiến mã, sẵn sàng chiến đấu “Khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa Khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai,…” để Tổ quốc Đại Việt được trường tồn bền vững: “Non sông nghìn thuở vững âu vàng” (Trần Nhân Tông).

“Thuật hoài” được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Giọng thơ hùng tráng, mạnh mẽ. Ngôn ngữ thơ hàm súc, hình tượng kỳ vĩ, tráng lệ, giọng thơ hào hùng, trang nghiêm, mang phong vị anh hùng ca. Nó mãi mãi là khúc tráng ca của các anh hùng tướng sĩ đời Trần, sáng ngời “hào khí Đông-A”.
 
Top Bottom