[Tác phẩm lớp 12] Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài

xuanle17

Cựu Mod Ngữ Văn
Thành viên
14 Tháng chín 2018
804
1,014
181
25
Thừa Thiên Huế
Đh sư phạm huế
[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Chi tiết “Nắm lá ngón” trong “Vợ chồng A Phủ” – Tô Hoài
1. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm và chi tiết “nắm lá ngón”
- Tô Hoài là một trong những nhà văn ưu tú của văn đàn Việt Nam
- Tác phẩm của ông thường là truyện ngắn và bút kí viết về thiên nhiên và đời sống thôn quê.
- Năm 1952, trong chuyến đi dài tám tháng lên Tây Bắc, Tô Hoài đã cho ra tập truyện “Tây Bắc”, đặc sắc với tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” để rồi từ đó,
- Chi tiết “lá ngón”trở thành một trong những chi tiết nghệ thuật đặc trưng, mang nhiều tầng ý nghĩa và để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm tưởng độc giả Việt Nam.

2. Thân bài
a) Khẳng định vai trò của chi tiết trong tác phẩm văn xuôi & khái quát nội dung chính tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”
- Cũng như nhãn tự trong một bài thơ, chi tiết nghệ thuật có vị trí vô cùng quan trọng đối với tác phẩm văn xuôi, nó có thể thâu tóm linh hồn của tác phẩm. Và dù thời gian trôi qua, tác giả không còn nữa thì khi nhắc đến chi tiết nghệ thuật liền nhớ lại nội dung tác phẩm. Điều đó kể như không bỏ công người nằm xuống.
- Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” được sáng tác khi Tô Hoài tham gia kháng chiến, căn cứ hoạt động ở miền cao Tây Bắc. Câu chuyện là cuộc đời tủi nhục của Mị và A Phủ – hai mảnh đời có số phận bất hạnh gần như nhau, đại diện cho những kiếp đời lầm than dưới ách thống trị tàn ác của bọn thực dân phong kiến. Họ gặp nhau, tự giải thoát và tìm đến Cách mạng như một lẽ hiển nhiên, biểu trưng cho con đường tìm đến Cách mạng, tìm đến giải phóng và tự do của đồng bào miền cao Tây Bắc.

b) Chi tiết “lá ngón” xuất hiện ba lần trong tác phẩm và chỉ gắn liền với nhân vật Mị
* Lần 1: “Mị ném nắm lá ngón xuống đất, nắm lá ngón Mị đã tìm hái trong rừng, Mị vẫn giấu trong áo”- định ăn lá ngón để tự tử -> ý thức về cuộc sống tủi nhục của mình -> không chấp nhận kiếp sống “người-vật”.
- Ý nghĩa:
+ “Lá ngón” xuất hiện lần đầu tiên như một lối thoát. Đây là lối thoát ngắn và hữu hiệu nhất, sự phản kháng quyết liệt nhưng vô vọng – một hình thức phản kháng bị động.
+ Sự xuất hiện của “lá ngón” lúc này mang tầm ý nghĩa tố cáo xã hội ép buộc con người lương thiện đi tìm cái chết.
+ Lá ngón cũng là hiện thân cho nỗi thống khổ của nhân dân, cho những tích tụ đắng cay, đầy đau đớn và uất hận.
+ Tự mình tìm đến lá ngón – độc dược của rừng xanh là sự can đảm của người con gái. Nhưng ném đi độc dược để tiếp tục sống khổ lại càng can đảm hơn. Đối với Mị, thà chết đi hơn sống nhục, nhưng rồi lại thà sống nhục còn hơn bất hiếu. Chính chữ hiếu là bản lĩnh cao đẹp nơi người con gái trẻ.
+ “Lá ngón” như vậy, đã mang một tầng ý nghĩa nhân sinh tuy bản thân tượng trưng cho cái chết. Tìm đến cái chết như một phương tiện giải thoát chính là hành động để khẳng định lòng ham sống, khát vọng tự do. Điều đó cho thấy, phải tha thiết sống lắm thì khi mất nó người ta mới muốn chết ngay đi. Còn khi niềm khao khát sống, khao khát hạnh phúc đã băng giá lại thì cũng chẳng còn gì thúc đẩy người ta nghĩ về cái chết. Đó là lí do cắt nghĩa vì sao khi người cha đã mất rồi mà ý nghĩ về nắm lá ngón không trở lại với Mị, chừng nào cô còn là một cái bóng vật vờ trôi theo guồng công việc và không còn nhớ đến cả sự xót thương mình.
*Lần 2 : “Lần lần, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa. Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”
Người thân duy nhất qua đời nhưng cái thôi thúc giải thoát trong Mị nay đã tắt. Mị không còn nghĩ đến đấu tranh bởi lẽ sống hay chết đối với cô lúc này không quan trọng nữa và đương nhiên “lá ngón” cũng chẳng còn trong tâm trí đã ngủ quên. Đó chính là sự xuất hiện lần thứ hai của “lá ngón” vì ở lần này, “lá ngón” xuất hiện bằng cách ra đi. Lá ngón phai mờ tượng trưng cho sự ham sống đã nguội lạnh.
*Lần 3 : Trong đêm tình xuân: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa”.
+ Tiếng sáo gọi bạn làm Mỵ nhớ lại những tháng ngày tươi đẹp trong quá khứ
+ Mị lấy rượu ra uống “ực từng bát”- Mị đang uống khát khao, mơ ước, căm hận vào lòng, nhưng càng uống càng tỉnh, nhớ lại mình ngày xưa, so với mình hiện tại, giật mình cho những gì bấy lâu phải chịu đựng, ý thức cá nhân dâng lên mạnh mẽ, không thể chấp nhận nhục nhã đớn đau trong cái cảnh “sống không ra người”, không thể tự do thể xác, lá ngón một lần nữa xuất hiện. Khi muốn giải thoát, Mị tìm tới lá ngón; khi Mị muốn chết, lá ngón lại hiện về “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa”. Lá ngón lại lần nữa xuất hiện với tầng ý nghĩa giải thoát, nhưng được lên một nấc của “sự tự ý thức”, đánh dấu sự trở lại của ý thức sống, đánh dấu sự thức tỉnh của một tâm hồn tưởng chừng như đã “chết đi trong cõi sống”.
+ Lần xuất hiện này của lá ngón là quan trọng nhất, mạnh mẽ nhất. Mị nghĩ đến lá ngón với sự cương quyết tột cùng, trạng thái phẫn nộ và ý thức rõ nhất vì giờ đây, cô không còn gì để hối tiếc. Tuổi xuân đầu đời – thời gian đẹp nhất – nay đã hết, cha già – nguồn yêu thương vô tận cũng không còn. Lòng Mị nay là cõi chết. Lá ngón đối với nàng không là liều thuốc độc, mà trở thành thứ phương tiện, hình thức, con đường để đi đến một bến bờ khác không còn đớn đau, Mị tìm đến lá ngón là tìm đến cái chết như một sự tự cứu và phản kháng.
*Tiểu kết: Mị là hình ảnh của đồng bào miền cao Tây Bắc sống kiếp nô cầm trong xã hội của bọn thực dân phong kiến, cũng như đồng bào miền xuôi hay khắp mọi miền đất nước khi ánh sáng cách mạng chưa kịp soi sáng. Mị cũng có sự tự tôn của mình, nhưng để bảo vệ sự tự tôn ấy, cô đã chọn lá ngón. Và có lẽ, đó là lẽ đương nhiên đối với một cô gái đơn độc có tâm hồn quá sáng trong nhưng vị thế lại quá nhỏ nhoi, nhất là khi ánh sáng cách mạng chưa thể rọi đến Hồng Ngài xa xăm. Xuất sắc chấm màu xanh lá ngón vào bức tranh xô bồ của thời cuộc, Tô Hoài đã đưa “lá ngón” từ chỗ độc dược ngàn đời của núi rừng, là cái chết từ thiên nhiên, nay bỗng nhiên lại là sự giải thoát. Lá ngón xuất hiện ba lần với ba tầng ý nghĩa ngày càng sâu sắc hơn, dữ dội hơn. Cái độc của lá ngón vậy ra vẫn còn thua cái độc của xã hội. Lá càng độc là đớn đau đồng bào chịu càng nhiều. Lá ngón trở thành dấu hiệu báo động cho sự khẩn thiết, cầu cứu của đồng bào miền cao đối với Cách mạng còn quá xa và cũng chính là tư tưởng nhân đạo cao đẹp mà tác giả muốn gửi gắm đến chúng ta qua hồn thiêng gió núi của đại ngàn Tây Bắc xa xăm.

3. Kết bài:
- Khẳng định lại một lần nữa vai trò quan trọng của chi tiết “nắm lá ngón” tron tác phẩm Vợ chồng A Phủ
- Thông qua chi tiết lá ngón, người đọc cảm nhận được những vẻ đẹp tâm hồn của người con gái vùng cao.
 
  • Like
Reactions: Phạm Đình Tài

xuanle17

Cựu Mod Ngữ Văn
Thành viên
14 Tháng chín 2018
804
1,014
181
25
Thừa Thiên Huế
Đh sư phạm huế
Chi tiết “TIẾNG SÁO” trong “Vợ chồng A Phủ” – Tô Hoài
1. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm và chi tiết “tiếng sáo”
- Tô Hoài là một trong những nhà văn ưu tú của văn đàn Việt Nam
- Tác phẩm của ông thường là truyện ngắn và bút kí viết về thiên nhiên và đời sống thôn quê.
- Năm 1952, trong chuyến đi dài tám tháng lên Tây Bắc, Tô Hoài đã cho ra tập truyện “Tây Bắc”, đặc sắc với tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” để rồi từ đó,
- Chi tiết “tiếng sáo” là một trong những chi tiết nghệ thuật đặc trưng, mang nhiều tầng ý nghĩa và để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm tưởng độc giả Việt Nam.

2. Thân bài
a) Khẳng định vai trò của chi tiết trong tác phẩm văn xuôi & khái quát nội dung chính tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”
- Cũng như nhãn tự trong một bài thơ, chi tiết nghệ thuật có vị trí vô cùng quan trọng đối với tác phẩm văn xuôi, nó có thể thâu tóm linh hồn của tác phẩm. Và dù thời gian trôi qua, tác giả không còn nữa thì khi nhắc đến chi tiết nghệ thuật liền nhớ lại nội dung tác phẩm.
- Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” được sáng tác khi Tô Hoài tham gia kháng chiến, căn cứ hoạt động ở miền cao Tây Bắc. Câu chuyện là cuộc đời tủi nhục của Mị và A Phủ – hai mảnh đời có số phận bất hạnh gần như nhau, đại diện cho những kiếp đời lầm than dưới ách thống trị tàn ác của bọn thực dân phong kiến. Họ gặp nhau, tự giải thoát và tìm đến Cách mạng như một lẽ hiển nhiên, biểu trưng cho con đường tìm đến Cách mạng, tìm đến giải phóng và tự do của đồng bào miền cao Tây Bắc.
b) Chi tiết “tiếng sáo” trong tác phẩm
- Chi tiết tiếng sáo được nhắc đến nhiều lần
+ Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi
+ Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng
+ Mà tiếng sao gọi bạn yêu vẫn lơ lửng bay ngoài đường
+ Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi,..
- Ý nghĩa
+ Tiếng sáo biểu hiện cho vẻ đẹp của phong tục, nét đẹp văn hóa người dân miền núi. Tiếng sáo là biểu tượng đẹp đẽ nhất của tình duyên, của tuổi thanh xuân căng đầy sức sống của Mỵ.
+ Là biểu tượng cho tiếng gọi cuộc sống, tình yêu; nó đã lay gọi, khơi gợi lòng yêu đời, yêu cuộc sống tự do trong Mị. Trong đêm tình xuân, tiếng sáo ấy làm Mỵ “thiết tha, bổi hổi”, là tác nhân quan trọng làm thức dậy trong Mị khát vọng tình yêu và hạnh phúc - dấu hiệu đầu tiên của sự hồi tỉnh là Mị sống lại với những kỉ niệm ngày trước. Nếu như trước đây, Mị tồn tại trong trạng thái vô hồn, vô cảm, với cảm thức phi thời gian, thì bây giờ Mị đã có ý thức về thời gian, trái tim đã đập những nhịp bồi hồi, xao xuyến, thôi thúc Mỵ bất chấp cảnh ngộ, muốn đi chơi.
+ Có quan hệ mật thiết với quá trình diễn biến tâm lí của Mị, là động lực thúc đẩy Mị đi đến hành động chuẩn bị đi chơi xuân
+ Thể hiện tư tưởng của tác phẩm: sức sống con người cho dù bị giẫm đạp, trói buộc nhưng vẫn luôn âm ỉ chờ cơ hội bùng lên (giá trị nhân đạo)

3. Kết bài
Nếu căn buồng Mị nằm biểu tượng cho thứ ngục thất tinh thần giam hãm đời Mị, thì hình tượng tiếng sáo trở thành biểu tượng đẹp đẽ cho khát vọng tự do, khát vọng sống, khát vọng tình yêu trong tâm hồn Mị. Chi tiết góp phần thể hiện tư tưởng, thái độ của nhà văn và thành công của ngòi bút Tô Hoài. Thông qua chi tiết “tiếng sáo” rất nhỏ bé mà chúng ta thấy được tấm lòng nâng niu trân trọng của nhà văn đối với nét đẹp văn hóa của và vẻ đẹp tâm hồn con người Tây Bắc.
 

xuanle17

Cựu Mod Ngữ Văn
Thành viên
14 Tháng chín 2018
804
1,014
181
25
Thừa Thiên Huế
Đh sư phạm huế
Chi tiết "căn buồng Mị nằm" trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
- Đó là căn buồng “kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”
- Ý nghĩa tả thực: là nơi Mị sống hằng ngày, chật chội và tù túng.
- Ý nghĩa biểu tượng: Như một nhà tù đã giam hãm cuộc đời và tuổi xuân của Mị, làm tê liệt ý thức sống, ý thức phản kháng của Mị. Sống ở đó Mị đã mất hết ý thức về thời gian, không còn nghĩ đến quá khứ hiện tại, tương lai mà xem “mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”, ngày càng “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” à Phản ánh cuộc sống đen tối, mờ mịt của người lao động miền núi dưới ách thống tị của cường quyền và thần quyền. => Tác phẩm mang giá trị hiện thực, tố cáo xã hội thực dân nửa phong kiến
 
Top Bottom