[Văn 9]Tạo bảng thống kê

T

thanhdatkien

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

mình bị mất SGK rồi có ai giúp mình tạo bảng tác giả tác phẩm ,nội dung,năm sáng tác ,hoàn cảnh ra đời
thanks nhìu :-*








Chú ý:[Văn 9]:+tiêu đề
Đã sửa!
Note:Với những nội dung như thế này thì nên lập chủ đề thường cho dễ theo dõi nhé!
 
Last edited by a moderator:
H

heroineladung

BẾN QUÊ - Nguyễn Minh Châu.

* Tác giả + tác phẩm:
- Nguyễn Minh Châu (1930- 1989) là cây bút xuất sắc của nền văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống Mĩ.
- Sau 1975, ông là người mở đường tinh anh và tài năng nhất trong công cuộc đổi mới Văn học nước nhà.
- Nguyễn Minh Châu được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 2000.
- Bến quê là một truyện ngắn tiêu biểu in trong tập truyện cùng tên của tác giả, xuất bản năm 1985.
- Bến quê là một trong những truyện ngắn tiêu biểu của Nguyễn Minh Châu được viết ra để đối chứng với quan niệm và nhận thức cũ, từ đó thấu hiểu:
Cuộc đời vốn đa sự, con người thì đa đoan.
- Tác phẩm là một triết lí mang tính trải nghiệm về cuộc đời con người, biết nhận ra những vẻ đẹp bình dị và quý giá trong những gì gần gũi như quê hương, gia đình.
* Nội dung:

Nhĩ ở vào một hoàn cảnh rất đặc biệt: Căn bệnh hiểm nghèo khiến anh hầu như bị liệt toàn thân, không thể tự mình di chuyển dù chỉ là nhích nửa người trên giường bệnh. Tất cả mọi sinh hoạt đều phải nhờ vào sự giúp đỡ của người khác mà chủ yếu là Liên, vợ anh.
Nhĩ phát hiện thấy vẻ đẹp bình dị mà hết sức quyến rũ của cái bãi bồi bên kia sông, ngay phía trước cửa sổ nhà, nhưng anh biết sẽ không bao giờ có thể đặt chân lên mảnh đất ấy, dù nó ở rất gần.
Nhĩ nhờ con giúp anh thoả nỗi khát khao nhưng cậu con trai lại không hiểu ý bố. Cậu đã rẽ vào một đám chơi cờ thế trên hè phố.
Truyện Bến quê xây dựng trên một tình huống nghịch lí
Suốt đời Nhĩ đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất, đây là một chân trời gần gũi, mà lại xa lắc vì chưa hề bao giờ đi đến cái bờ bên kia của sông Hồng ngay trước cửa sổ nhà mình.
Khi Nhĩ muốn nhích người đến bên cửa sổ, việc ấy với anh khó khăn như phải đi hết cả một vòng trái đất, anh phải nhờ vào sự trợ giúp của đám trẻ con hàng xóm.
Khi phát hiện thấy vẻ đẹp lạ lùng của cái bãi bồi bên kia sông, anh biết rằng sẽ không bao giờ có thể được đặt chân lên mảnh đất ấy, dù nó ở rất gần.
Nhĩ nhờ con trai thực hiện giúp mình cái điều khát khao đó. Nhưng cậu ta không hiểu ước muốn của cha, nó làm một cách miễn cưỡng và rồi lại bị cuốn hút vào trò chơi hấp dẫn gặp trên đường, để rồi có thể lỡ chuyến đò ngang duy nhất trong ngày.
ý nghĩa của những tình huống nghịch lí
Nguyễn Minh Châu đã nêu lên một nhận thức về cuộc đời:
Cuộc sống và số phận con người chứa đầy những điều bất thường, những nghịch lí ngẫu nhiên, vượt ra ngoài những dự định và ước muốn cả những hiểu biết và toan tính của con người.
Trong cuộc đời, người ta thường khó tránh được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình.
Những giá trị và vẻ đẹp đích thực của đời sống ở ngay những cái gần gũi, bình thường mà bền vững.
Nguyễn Minh Châu muốn nhắc nhở mọi người đừng vô tình mà phải biết gắn bó, trân trọng cảnh vật quê hương xứ sở vì cái đó là máu thịt, là tâm hồn của mỗi chúng ta.
Phải biết phát hiện ra vẻ đẹp bình dị, thân thuộc của quê nhà để nâng niu, yêu quý.
Tác phẩm mang tính biểu tượng
Hình ảnh bãi bồi, bến sông và khung cảnh thiên nhiên là biểu tượng cho vẻ đẹp của đời sống, của quê hương xứ sở trong những cái gần gũi, bình dị. Nhan đề Bến quê mang ý nghĩa biểu tượng ấy.
Sắc tím đậm hơn của những bông hoa bằng lăng cuối mùa; tiếng đất lở ở bờ sông bên này khi cơn lũ đầu nguồn dồn về?là biểu tượng cho sự sống tàn lụi trong những ngày cuối cùng của đời Nhĩ.
Con đò chở khách trên sông Hồng cập bến là con đò sẽ đưa Nhĩ tới cõi hư không của một kiếp người.
Hình ảnh cậu con trai sa vào một đám chơi phá cờ thế trên lề đường biểu tượng cho cái vòng vèo, chùng chình trên đường đời mà người ta khó tránh khỏi.
Hành động kì quặc của Nhĩ ở cuối truyện có ý nghĩa thức tỉnh con người hãy mau dứt bỏ những cái vòng vèo, chùng chình trên đường đời để hướng tới những giá trị đích thực, vốn rất giản dị, gần gũi và bền vững.


Chúc em học tập tốt nhé!
 
H

heroineladung

NHỮNG NGÔI SAO XA XÔI




[FONT=&]I.Tác giả, tác phẩm[/FONT]


[FONT=&]1.Tác giả[/FONT]



- Lê Minh Khuê sinh năm 1949, quê ở huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Trong kháng chiến chống Mĩ, gia nhập thanh niên xung phong và bắt đầu viết văn vào đầu những năm 70, chủ yếu viết về cuộc sống và chiến đấu của thanh niên xung phong và bộ đội trên tuyến đường Trường Sơn, đã gây được sự chú ý của bạn đọc. Sau năm 1975, sáng tác của Lê Minh Khuê bám sát những biến chuyển của đời sống, đề cập đến nhiều vấn đề bức xúc của xã hội và con người với tinh thần đổi mới mạnh mẽ. Lê Minh Khuê là nhà văn có sở trường về truyện ngắn, với ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, sắc sảo, đặc biệt là tâm lí nhân vật phụ nữ.




- Tác phẩm chính: Cao điểm mùa hạ ( 1978 ), Đoàn kết ( 1980 ), Một chiều xa thành phố ( 1978 ), Bi kịch nhỏ ( 1993 )…




[FONT=&]2.Tác phẩm[/FONT]


[FONT=&]Truyện Những ngôi sao xa xôi ở trong số những tác phẩm đầu tay của Lê Minh Khuê, viết năm 1971, trong lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra ác liệt.[/FONT]



[FONT=&]II.Truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi[/FONT]


[FONT=&]1.Tóm tắt nội dung truyện[/FONT]



[FONT=&]Ba nữ thanh niên xung phong làm thành một tổ trinh sát mặt đường tại một trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn. Họ gồm có hai cô gái còn rất trẻ là Định và Nho, còn tổ trưởng là chị Thao lớn tuổi hơn một chút. Nhiệm vụ của họ là quan sát địch ném bom, đo khối lượng đất đá phải san lấp do bom địch gây ra, đánh dấu vị trí các trái bom chưa nổ và phá bom. Công việc của họ hết sức nguy hiểm vì thường xuyên phải chạy trên cao điểm giữa ban ngày và máy bay địch có thể ập đến bất cứ lúc nào. Đặc biệt họ phải bình tĩnh đối mặt với thần chết trong mỗi lần phá bom- mà công việc này diễn ra hằng ngày, thậm chí mấy lần trong một ngày. Họ ở trong một cái hang, dưới chân cao điểm, tách xa đơn vị. Cuộc sống của ba cô gái ở nơi trọng điểm giữa chiến trường dù khắc nghiệt và nguy hiểm nhưng vẫn có những niềm vui hồn nhiên của tuổi trẻ, những giây phú thanh thản, mơ mộng và đặc biệt là họ rất gắn bó, yêu thương nhau trong tình đồng đội, dù mỗi người một cá tính. Phương Định, nhân vật kể chuyện và cũng là nhân vật chính, là một cô gái giàu cảm xúc, hay mơ mộng, hồn nhiên và luôn nhớ về những kỉ niệm của tuổi thiếu nữ, với gia đình và thành phố thân yêu của mình. Ở phần cuối, truyện tập trung miêu tả hành động và tâm trạng của các nhân vật mà chủ yếu là của Phương Định, trong một lần phá bom, Nho bị thương và sự lo lắng, săn sóc của hai người đồng đội.[/FONT]



[FONT=&]2.Ngôi kể và người kể chuyện[/FONT]


[FONT=&]Truyện được trần thuật từ ngôi thứ nhất và người kể chuyện cũng là nhân vật chính. Sự lựa chọn ngôi kể như vậy phù hợp với nội dung tác phẩm và tạo thuận lợi để tác giả miêu tả, biểu hiện thế gới tâm hồn, những cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật. Truyện viết về chiến tranh cố nhiên có những chi tiết, sự việc về bom đạn, chiến đấu hi sinh, nhưng vẫn chủ yếu hướng vào thế giới nội tâm, làm hiện lên vẻ đẹp tâm hồn của con người trong chiến tranh. Tạo được hiệu quả đó, một phần quan trọng là nhờ ở cách lựa chọn nhân vật kể chuyện như đã nói ở trên.[/FONT]



[FONT=&]3.Ba nhân nhân vật nữ thanh niên xung phong[/FONT]



[FONT=&]a.Ba nhân vật nữ thanh niên xung phong tổ trinh sát mặt đường[/FONT]



[FONT=&]- Hoàn cảnh sống và chiến đấu: Họ ở trên một cao điểm, giữa một vùng trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn, tức là ở nơi tập trung nhất bom đạn và sự nguy hiểm ác liệt. Không những thế, công việc của họ lại càng đặc biệt nguy hiểm. Họ phải chạy trên cao điểm giữa ban ngày, phơi mình ra giữa vùng trọng điểm đánh phá của máy bay địch. Sau mỗi trận bom, họ phải lao ra trọng điểm, đo và ước tính khối lượng đất đá bị bom địch đào xới, đếm những quả bom chưa nổ và dùng những khối thuốc nổ đặt vào cạnh nó để phá. Đó là một công việc phải mạo hiểm với cái chết, luôn căng thẳng thần kinh, đòi hỏi sự dũng cảm và bình tĩnh hết sức. Nhưng với ba cô gái thì những công việc ấy đã trở thành công việc hàng ngày: [/FONT]​



“ Có ở đâu như thế này không: đất bốc khói, không khí bàng hoàng, máy bay đang ầm ì xa dần. Thần kinh căng như chão, tim đập bất chấp cả nhịp điệu, chân chạy mà vẫn biết rằng khắp chung quanh có nhiều quả bom chưa nổ. Có thể nổ bây giờ, có thể chốc nữa. Nhưng nhất định sẽ nổ…Rồi khi xong việc, quay lại nhìn cảnh đoạn đường một lần nữa, thở phào, chạy về hang”




[FONT=&]- Họ là những cô gái còn rất trẻ, cá tính và hoàn cảnh riêng không giống nhau, nhưng đều có phẩm chất chung của những chiến sĩ thanh niên xung phong ở chiến trường: tinh thần trách nhiệm cao đối với nhiệm vụ, lòng dũng cảm không sợ hi sinh, tình đồng đội gắn bó. Ở họ còn có những nét chung của của các cô gái trẻ: dễ xúc cảm, nhiều mơ ước, hay mơ mộng, dễ vui mà cũng dễ trầm tư. Họ cũng thích làm đẹp cho cuộc sống của mình, ngay cả trong hoàn cảnh chiến đấu ác liệt của chiến trường ( Nho thích thêu thùa, chị Thao chăm chép bài hát, định thích ngắm mình trong gương, ngồi bó gối mơ mộng và hát)[/FONT]


[FONT=&]- Dù trong một tập thể nhỏ rất gắn bó với nhau nhưng ở mỗi người vẫn có những nét cá tính. Phương Định vốn là một cô gái thành phố, nhạy cảm và hồn nhiên, thích mơ mộng và hay sống với những kỉ niệm tuổi thiếu nữ vô tư giữa gia đình và thành phố của mình. Chị Thao ít nhiều có từng trải hơn, không dễ dàng hồn nhiên, mơ ước và dự tính về tương lai có ve thiết thực hơn nhưng cũng không thiếu những khát khao và rung động của tuổi trẻ. Chị chiến đấu dũng cảm, bình tĩnh, nhưng lại rất sợ khi nhìn thấy máu chảy.[/FONT]
~~> Còn tiếp.​
 
H

heroineladung

[FONT=&]b.Nhân vật Phương Định[/FONT]



[FONT=&]- Phương Định là con gái Hà Nội vào chiến trường. Cô có một thời hồn nhiên vô tư bên người mẹ, một căn buồng nhỏ ở một đường phố yên tĩnh trong những ngày thanh bình trước chiến tranh ở thành phố của mình. Những kỉ niệm ấy luôn sống lại trong cô ngay giữa chiến trường dữ dội. Nó vừa là niềm khao khát, vừa làm dịu mát tâm hồn trong hoàn cảnh căng thẳng, khốc liệt của chiến trường.[/FONT]



[FONT=&]- Vào chiến trường đã ba năm, đã quen với những thử thách nguy hiểm, giáp mặt hàng ngày với cái chết, nhưng ở cô cũng như những đồng đội, không mất đi sự hồn nhiên, trong sáng và những ước mơ về tương lai. Nét cá tính ở nhân vật được thể hiện khá rõ. Phương Định là cô gái nhạy cảm, hồn nhiên, hay mơ mộng và thích hát [/FONT]​



(“ Tôi mê hát. Thường cứ thuộc một điệu nhạc nào đó rồi bịa lời ra mà hát. Lời tôi bịa lộn xộn mà ngớ ngẩn đến tôi cũng phải ngạc nhiên, đôi khi bò ra mà cười một mình”, “ Tôi thích nhiều bài. Những bài hành khúc bộ đội hay hát trên những ngả đường mặt trận. Tôi thích dân ca quan họ mềm mại, dịu dàng. Thích Ca-chiu-sa của Hồng quân Liên Xô. Thích ngồi bó ngối mơ màng: “ Về đây khi mái tóc còn xanh xanh…”. Đó là dân ca Ý trữ tình giàu có, phải lấy giọng thật trầm, thích nhiều” )




[FONT=&]- Cũng giống như những người đồng đội trong tổ trinh sát, Phương định yêu mến những người đồng đội trong tổ và cả đơn vị của mình, đặc biệt cô dành tình yêu và niềm cảm phục cho tất cả những người chiến sĩ mà hằng đêm cô gặp trên trọng điểm của con đường vào mặt trận.[/FONT]



[FONT=&]- Cũng như các cô gái mới lớn, Phương Định nhạy cảm và quan tâm đến hình thức của mình. Cô tự đánh giá: “ Tôi là con gái Hà Nội. Nói một cách khiêm tốn, tôi là một cô gái khá. Hai bím tóc dày, tương đối mềm, một cái cổ cao, kiêu hãnh như đài hoa loa kèn. Còn mắt tôi thì các anh lái xe bảo: “ Cô có cái nhìn sao mà xa xăm!”. [/FONT]



Cô biết mình được nhiều người, nhất là các anh lính để ý và có thiện cảm. Điều đó làm cô thấy vui và cả tự hào, nhưng chưa dành riêng tình cảm cho một ai. Nhạy cảm, nhưng cô lại không hay biểu lộ tình cảm của mình, tỏ ra kín đáo giữa đám đông, tưởng như là kiêu kì.




- Tâm lí nhân vật Phương Định trong một lần phá bom đã được miêu tả rất cụ thể, tinh tế đến từng cảm giác, ý nghĩ dù chỉ thoáng qua trong giây lát. Mặc dù đã rất quen với công việc nguy hiểm này, thậm chí một ngày có thể phải phá tới năm quả bom, nhưng mỗi lần vẫn là một thử thách với thần kinh cho đến từng cảm giác. Từ khung cảnh và không khí chứa đầy sự căng thẳng đến cảm giác là các anh cao xạ ở trên kia đang theo dõi từng động tác, cử chỉ của mình, để rồi lòng dũng cảm ở cô như được kích thích bởi sự tự trọng: “ Tôi đến gần quả bom. Cảm thấy coa ánh mắt các chiến sĩ theo dõi mình, tôi không sự nữa. Tôi sẽ không đi khom. Các anh ấy không thích cái kiểu đi khom khi có thể cứ đàng hoàng mà bước tới”.




Ở bên quả bom, kề sát với cái chết im lìm và bất ngờ, từng cảm giác của con người cũng trở lên sắc nhọn hơn: “ Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng động sắc đến gai người cứa vào da thịt tôi. Tôi rùng mình và bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm. Nhanh lên một tý! Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng lành”. Tiếp đó là cảm giác căng thẳng chờ đợi tiếng nổ của quả bom.



[FONT=&]Qua những đoạn phân tích ở trên, cùng với rất nhiều chi tiết trong truyện, ngòi bút của Lê Minh Khuê đã miêu tả rất sinh động, chân thực tâm lí nhân vật, làm hiện lên một thế giới nội tâm phong phú, nhưng trong sáng, không phức tạp. Cách nhìn và thể hiện con người thiên về cái tốt đẹp, trong sáng, cao thượng cũng là phương hướng chủ đạo và thống nhất trong văn học Việt Nam thời kì kháng chiến. Cũng nằm trong hướng chung đó, nhưng truyện của Lê Minh Khuê không rơi vào tình trạng giản đơn, công thức, dễ dãi vì tác giả đã phát hiện và miêu tả được đời sống nội tâm với những nét tâm lí cụ thể của nhân vật.[/FONT]

[FONT=&]4.Đặc điểm nghệ thuật của truyện[/FONT]



[FONT=&]- Về phương thức trần thuật: truyện được trần thuật từ ngôi thứ nhất, cũng là nhân vật chính. Cách này tạo điều kiện thuận lợi để tác giả tập trung miêu tả thế giới nội tâm của nhân vật và tạo ra một điểm nhìn phù hợp để miêu tả hiện thực cuộc chiến đấu ở một trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn.[/FONT]



[FONT=&]- Nghệ thuật xây dựng nhân vật, chủ yếu là miêu tả tâm lí[/FONT]



[FONT=&]- Ngôn ngữ và giọng điệu: ngôn ngữ trần thuật phù hợp với nhân vật kể chuyện-cô gái thanh niên xung phong người Hà Nội-tạo cho tác phẩm có ngôn ngữ tự nhiên, gần với khẩu ngữ, trẻ trung và có nữ tính. Lời kể thường dùng những câu ngắn, nhịp nhanh tạo được không khí khẩn trương trong hoàn cảnh chiến trường. Ở những đoạn hồi tưởng, nhịp kể chậm lại, gợi nhớ những kỉ niệm của tuổi niên thiếu hồn nhiên, vô tư và không khí thanh bình trước chiến tranh.[/FONT]


-----------------------------------------------------------------------------------------------

LÀNG





I.Tác giả, tác phẩm
1.Tác giả

- Kim Lân tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài, sinh năm 1920, quê ở Bắc Ninh. Kim Lân bắt đầu viết truyện ngắn từ năm 1941. Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn của Kim Lân tập trung ở khung cảnh nông thôn và hình tượng người nông dân, thể hiện không khí tiêu điều, ảm đạm của nông thôn Việt Nam và cuộc sống vất vả lam lũ của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Ngòi bút của Kim Lân đặc biệt hấp dẫn khi viết về sinh hoạt phong phú ở thôn quê vớinhững thú chơi lành mạnh như đánh vật, chọi gà, thả chim…, qua đó thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân trước Cách mạng sống cực nhọc, khổ nghèo nhưng vẫn yêu đời, trong sáng, tài hoa. Sau cách mạng Kim Lân vẫn tiếp tục viết về làng quê Việt Nam và gặt hái những thành công mới ở đề tài sở trường của mình
- Tác phẩm chính: Nên vợ nên chồng ( 1955 ) Con chó xấu xí (1962)

2.Truyện ngắn "Làng" được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng lần đầu trên tạp chí Văn nghệ ( 1948 )


II.Truyện ngắn Làng
1.Đặc điểm cần lưu ý
- Truyện thuộc loại có cốt truyện tâm lí, không xây dựng trên các biến cố lớn, sự kiện bên ngoài mà chú trọng đến các tình huống bên trong nội tâm nhân vật, miêu tả các diễn biến tâm lí, từ đó làm nổi rõ tính cách nhân vật và chủ đề tác phẩm.

- Truyện Làng khai thác một tình cảm bao trùm và phổ biến trong con người thời kì kháng chiến: tình cảm quê hương đất nước. Đây là một tình cảm mang tính cộg đồng. Nhưng thành công của Kim Lân là đã diễn tả tình cảm, tâm lí chung ấy trong sự thể hiện cụ thể sinh động ở một con người, trở thành một nét tâm lí sâu sắc ở nhân vật ông Hai, vì thế nó là tình cảm chung mà lại mang rõ màu sắc riêng, cá nhân, in rõ cá tính nhân vật.

2.Tình yêu làng ở nhân vật ông Hai

- Ông Hai yêu cái làng chợ Dầu của mình bằng một tình cảm thật đặc biệt. Những biểu hiện của tình ấy ở ông Hai cũng rất đặc biệt: ông say mê kể về làng, luôn khoe làng mình, tự hào với cái làng chợ Dầu của mình về nhiều mặt. Tình cảm ấy càng được bộc lộ tha thiết, nhiệt thành khi ông phải xa làng đi tản cư.

- Ông tự hào về làng mình giàu đẹp: “ nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh. Đường trong làng lát toàn đá xanh, trời mưa trời gió tha hồ đi khắp đầu làng, cuối xóm, bùn không dính đến gót chân”

- Hồi trước Cách mạng, ông còn khoe về cái sinh phần của viên tổng đốc người làng ông

~~> Còn tiếp.
 
H

heroineladung

- Sau Cách mạng, ông lại tự hào về những cái khác, đó là phong trào cách mạng của làng rất sôi nổi, rất có khí thế, lôi cuốn mọi tầng lớp nhân dân vào các đoàn thể cứu quốc. Ông còn khoe về “ cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa, rộng rãi nhất vùng, chòi phát thanh cao bằng ngọn tre, chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy”

- Ông nói chuyện về cái làng của mình một cách say mê náo nức lạ thường: “ Hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mặt biến chuyển, hoạt động”

- Ông tình nguyện hăng hái ở lại làng cùng đội du kích chiến đấu. Đến khi vì hoàn cảnh gia đình phải đi tản cư, ông khổ tâm, day dứt, nhớ làng, nhớ anh em đồng chí ở lại làng.

Tác giả đã diễn tả một tình cảm, một nét tâm lí quen thuộc và truyền thống của người nông dân: tình cảm gắn bó với làng quê và tự hào về quê hương mình. Cái tâm lí tự hào về làng quê ở người nông dân có lúc đẩy lên thành một thứ tâm lí địa phương hẹp hòi, ở ông Hai phần nào nhiễm cái tâm lí ấy. Nhưng chính cách mạng và kháng chiến đã khơi dậy ở những người nông dân tình cảm yêu nước rộng lớn , hoà nhập thốg nhất tình cảm làng quê vào tình cảm rộng lớn ấy. Ở ông hai, tình cảm yêu làng là thống nhất với lòng yêu nước, với tinh thần kháng chiến

2.Diễn biến tâm trạng của ông Hai khi nghe tin làng mình theo giặc

a.Tác giả đã đặt nhân vật ông Hai vào một tình huống gay gắt để làm bộc lộ sâu sắc tình cảm yêu làng, yêu nước của ông. Tình huống ấy là cái tin làng ông theo giặc, lập tề à chính ông nghe được từ miệng những người mới tản cư qua vùng ông


- Khi nghe tin quá đột ngột ấy, ông Hai sững sờ : “ Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được”. Khi trấn tĩnh lại được phần nào, ông còn cố chưa tin cái tin ấy. Nhưng rồi những người tản cư đã kể rành rọt quá, lại khẳng định họ vừa ở dưới ấy lên, làm ông không thể không tin.

- Từ lúc ấy trong tâm trí ông Hai chỉ còn có cái tin dữ ấy xâm chiếm, nó thành một nỗi ám ảnh day dứt. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông cúi gằm mặt mà đi. Về đến nhà, ông nằm vật ra giường, rồi tủi thân nhìn đàn con “ nước mắt ông lão cứ tràn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?”

- Suốt mấy ngày sau, ông Hai không dám đi đâu. Ông chỉ quanh quẩn ở nhà, nghe ngóng binh tình bên ngoài. “ Một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến cái chuyện ấy”, “ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam nhông…là ông lủi ra một góc nhà, nín thít, thôi lại chuyện ấy rồi”

Tác giả đã diễn tả rất cụ thể nỗi ám ảnh nặng nề biến thành sự sợ hãi thường xuyên trong ông Hai cùng với nỗi đau xót, tủi hổ của ông trước cái tin làng mình theo giặc.

b.Tác giả thể hiện sâu sắc tình yêu làng quê và tinh thần yêu nước ở ông Hai qua một mâu thuẫn: khi nghe tin làng mình theo giặc, hai tình cảm ấy đã dãn đến một cuộc xung đột nội tâm ở ông Hai. Ông đã dứt khoát lựa chọn theo cách của ông: làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây thì phải thù, tình yêu nước đã rộng lớn hơn, bao trùm lên tình cảm với làng quê. Nhưng dù đã xác định như thế, ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm với làng quê, vì thế mà ông càng đau xót tủi hổ.

- Ông Hai đã bị đẩy vào tình thế bế tắc tuyệt vọng khi mà mụ chủ nhà muốn đuổi gia đình ông đi. Đi đâu bây giờ? Không ai chứa chấp dân của cái làng Việt gian, cũng không thể quay về làng, “ Về làng tức là chịu quay lại làm nô lệ cho thằng Tây”. Mối mâu thuẫn trong nội tâm và tình thế của nhân vật dường như đã thành sự bế tắc, đòi hỏi phải được giải quyết.

- Trong tâm trạng bị dồn nén và bế tắc ấy, ông chỉ còn biết trút nỗi lòng của mình vào những lời thủ thỉ tâm sự với đứa con nhỏ còn rất thơ ngây: “ Ông lão ôm thằng con út …cũng vợi đi được đôi phần”. Đây là một đoạn văn diễn tả rất cảm động và sinh động nỗi lòng sâu xa, bền chặt, chân thành của ông Hai- một người nông dân- với quê hương, đất nước, với cách mạng và kháng chiến. Qua những lời tâm sự với đứa con nhỏ, thực chất là lời tự nhủ với mình, ta thấy rõ ở ông Hai:

+ Tình yêu sâu nặng với cái làng chợ Dầu của ông, ông muốn đứa con nhỏ ghi nhớ câu “ Nhà ta ở làng chợ Dầu”

+ Tấm lòng chung thuỷ với kháng chiến, với cách mạng mà biểu tượng là Cụ Hồ “ Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông”. Tình cảm ấy là sâu nặng, bền vững và thiêng liêng “ Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai”

c.Nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm trạng ông Hai

- Tác giả đặt nhân vật vào tình huống thử thách bên trong để bộc lộ chiều sâu tâm trạng.

- Tác giả miêu tả rất cụ thể, gợi cảm các diễn biến nội tâm qua các ý nghĩ, cảm giác, hành vi, ngôn ngữ…Đặc biệt, tác giả đã diễn tả rất đúng và gây ấn tượng mạnh mẽ về sự ám ảnh, day dứt trong tâm trạng nhân vật. Điều đó chứng tỏ Kim Lân am hiểu sâu sắc con người nông dân và thế giới tinh thần của họ.

3.Nghệ thuật của truyện ngắn Làng

- Truyện xây dựng theo cốt truyện tâm lí. Tác giả đã sáng tạo tình huống truyện có tính căng thẳng, thử thách ở nội tâm nhân vật, từ đó bộc lộ đời sống bên trong, tình cảm tư tưởng của nhân vật. Đặt vào trong thời điểm ra đời của tác phẩm càng thấy được thành công của Kim Lân.

- Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sâu sắc, tinh tế.

- Ngôn ngữ nhân vật sinh động, giàu tính khẩu ngữ và thể hiện cá tính của từng nhân vật ( cũng là ngôn ngữ nông dân nhưng lời nói của ông Hai và mụ chủ nhà rất khác nhau ). Qua ngôn ngữ mà làm rõ tính cách nhân vật, đồng thời phản ánh tâm lí ham thích các sinh hoạt chính trị của quần chúng hồi đầu cách mạng và kháng chiến.

- Cách trần thuật của tác giả linh hoạt, tự nhiên, có nhiều chi tiết sinh hoạt, đời sống hàng ngày xen vào với mạch tâm trạng khiến cho truyện sinh động hơn (qua truyện có thể thấy cụ thể về đời sống người tản cư, mối quan hệ giữa chủ nhà và dân tản cư, những nét sinh hoạt hàng ngày trong vùng kháng chiến)


Chúc em học tập tốt nhé! @};-
 
Top Bottom