[Ngữ văn 8]Văn thuyết minh

T

thongoc_97977

Người bạn tốt nhất mà con người có được trên thế giới này có thể một ngày nào đó hoá ra kẻ thù quay lại chống lại ta. Con cái mà ta nuôi dưỡng với tình yêu thương hết mực rồi có thể là một lũ vô ơn.

Những người gần gũi thân thiết ta nhất, những người ta gửi gắm hạnh phúc và danh dự có thể trở thành kẻ phản bội, phụ bạc lòng tin cậy và sự trung thành. Tiền bạc mà con người có được, rồi sẽ mất đi. Nó mất đi đúng vào lúc ta cần đến nó nhất. Tiếng tăm của con người cũng có thể tiêu tan trong phút chốc bởi một hành động một giờ.

Những kẻ phủ phục tôn vinh ta khi ta thành đạt có thể sẽ là những kẻ đầu tiên ném đá vào ta khi ta sa cơ lỡ vận. Duy có một người bạn hoàn toàn không vụ lợi mà con người có được trong thế giới ích kỷ này, người bạn không bao giờ bỏ ta đi, không bao giờ tỏ ra vô ơn hay tráo trở, đó là con chó của ta.


Con chó của ta luôn ở bên cạnh ta trong phú quý cũng như trong lúc bần hàn, khi khoẻ mạnh cũng như lúc ốm đau. Nó ngủ yên trên nền đất lạnh, dù đông cắt da cắt thịt hay bão tuyết lấp vùi, miễn sao được cận kề bên chủ là được. Nó hôn bàn tay ta dù khi ta không còn thức ăn gì cho nó. Nó liếm vết thương của ta và những trầy xước mà ta hứng chịu khi ta va chạm với cuộc đời tàn bạo này. Nó canh giấc ngủ của ta như thể ta là một ông hoàng dù ta có là một gã ăn mày.

Dù khi ta đã tán gia bại sản, thân bại danh liệt thì vẫn còn con chó trung thành với tình yêu nó dành cho ta như thái dương trên bầu trời. Nếu chẳng may số phận đá ta ra rìa xã hội, không bạn bè, vô gia cư thì con chó trung thành chỉ xin ta một ân huệ là cho nó được đồng hành, cho nó làm kẻ bảo vệ ta trước hiểm nguy, giúp ta chống lại kẻ thù.

Và một khi trò đời hạ màn, thần chết rước linh hồn ta đi để lại thân xác ta trong lòng đất lạnh, thì khi ấy khi tất cả thân bằng quyến thuộc đã phủi tay sau nắm đất cuối cùng và quay đi để sống tiếp cuộc đời của họ. Thì khi ấy còn bên nấm mồ ta con chó cao thượng của ta nằm gục mõm giữa hai chân trước, đôi mắt ướt buồn vẫn mở ra cảnh giác, trung thành và chân thực ngay cả khi ta đã mất rồi.
 
T

thongoc_97977

“Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta “

Câu ca dao, tục ngữ có từ xa xưa đã gắn liền với nền nông nghiệp Việt Nam nhưng bây giờ hình ảnh con trâu đi trước cái cày theo sau được xem là một hình ảnh của một nền nông nghiệp lạc hậu ở Việt Nam. Dù nói gì thì nói nhưng con trâu vẫn là người bạn thân thương của nông dân Việt Nam tự bao giờ . Vậy mà giờ đây , con trâu chỉ được biết đến qua sách báo , các vùng quê việt nam là rất ít vì sự đổi mới của ngành nông nghiệp của việt nam .

Con trâu là loài nhai lại , thân hình to đen ,nhóm sừng rỗng, bộ guốc chẵn và thuộc lớp thú có vú, trâu có trọng lượng từ 350 kg- 800 kg ,trâu đẻ con. Loài trâu gắn liền với quá trình phát triển nông nghiệp của nước ta từ xưa đên nay . Nếu lúa là loài lương thực chính của nước ta thì trâu là người bạn đồng hành của các bác nông dân mỗi khi cày bừa . Trâu có sừng rất to và chúng thích trầm mình trong đầm lầy vì ớp bùn ấy có thể bảo vệ trâu khỏi bọn bọn ruồi và kí sing trùng làm phiền, tránh tia cực tím của ánh nắng mặt trời làm hư tổn da của loài trâu, làm cho da dẻ của trâu them mịn màng, mát mẻ hơn .
Vì sự dẻo dai , có thể cày bừa ở ruộng sâu ruộng nhiều bùn, lún mà bò không thể cày được nhưng nhược điểm thì trâu khó nuôi nhốt như bò, cần phải chăn thả. Vì ngành nông nghiệp phát triển mạnh nên giờ đây con trâu được thay thế bởi các loại máy móc làm nó bị sao lãng ở Vệt Nam. Trước kia, vì sức kéo trên đồng dựa vào trâu bò, ngành nông nghiệp đã chi không ít tiền cho việc nhập khẩu trâu giống to khỏe từ nước ngoài để nâng cấp đàn trâu trong nước còn ngày nay thì số tiền trên được chi để trang bị các loại máy móc tân tiến và hiện đại hơn . Ngoài việc cày bừa giỏi thì trâu còn dùng để kéo xe, trục lúa, chở lúa. Hình ảnh con trâu cùng với luỹ tre xanh nhã nhặn, những đồng lúa thẳng tắp cò bay tiếng sáo diều vi vu đã dệt nên 1 bản hoà âm tuyệt sắc của thiên nhiên.

Ngoài ra trâu con gắn liền với những lễ hội truyền thống như chọi trâu đâm trâu . Lẽ hội chọi trâu ở Hải Phòng là nổi tiếng nhất .Hải Phòng là vùng đất có truyền thống văn hoá với nhiều di tích lịch sử và danh thắng mang đặc trưng của miền biển. Trong những di sản văn hoá ấy, nổi bật là lễ hội chọi trâu Đồ Sơn , được coi không chỉ có giá trị văn hoá, tín ngưỡng, độc đáo mà còn là điểm du lịch hấp dẫn với mọi người.

Trâu là nguồn cung cấp thức ăn , sữa, da để thuộc, sừng để làm đồ mĩ nghệ. Trước kia, vì sức kéo trên đồng dựa vào trâu bò, ngành nông nghiệp đã chi không ít tiền cho việc nhập khẩu trâu giống to, khỏe từ nước ngoài để nâng cấp đàn trâu trong nước. Thậm chí có người chăn trâu giỏi được phong tặng Anh hùng Lao động. Hơn chục năm qua, các trung tâm nghiên cứu trâu, các dự án lai tạo, phát triển đàn trâu biến mất trong các báo cáo hàng năm cuả ngành nông nghiệp.

Đất nông nghiệp của ta vốn phân tán, manh mún, địa hình lại không bằng phẳng. Như ở miền Tây, đất đai cò bay thẳng cánh thì việc cày bừa bằng máy có vẻ dễ dàng nhưng ở miền Trung, miền Bắc thì khác, thửa đất 2.000-3.000 mét vuông rất hiếm cho máy móc dụng võ. Máy móc chắc chắn sẽ chẳng có hiệu quả cày kéo bằng con trâu nếu thửa ruộng chỉ có vài trăm mét vuông, hay ruộng trũng, luôn ngập nước. Máy móc cũng chẳng thể phát huy tác dụng bằng con trâu nếu đó là đầt đồi địa hình không bằng phẳng.

Tuổi thơ của trẻ con Việt nam còn gắn liền với con trâu . Trâu ăn ở với người đời đời kiếp kiếp lun san sẽ bao nỗi vất vã, những giọt mồ hôi nước mắt với người và cứ thế hình ảnh những chú trâu trâu đã đi sâu vào tâm trí của nhà nông 1 hình ảnh gần gũi và cao đẹp. dưới những bóng tre mát rượi trâu lim dim mắt trong những buổi trưa hè đày nắng gió. những tiếng sáo diều vi vu dướng như những tiếng ru ầu ơ hoà vào khung cảnh thiên nhiên thanh bình với hình ảnh nhứng chú mục đồng chă m chỉ trên lưng trâu học bài.

Giờ đây , những chú trâu hiền lành , hữu ích đã trở thành người bạn của nông dân nói riêng và của miền quê Việt nam nói chung . Hình ảnh những chú trâu ngày ngày bên cạnh người nông dân cày bừa đã trở thành một biểu tượng của một miền quê thân yêu Việt Nam.
 
K

khoctrongmua1999

bạn thử tham khảo xem nke

Chó là một loài động vật rất có ích cho con người. Nó trung thành, dễ gần và là bạn của con người. Cũng có thể vì thế mà người ta gọi nó là "linh cẩu".


Chó có rất nhiều loại và từ đó người ta đặt tên cho chúng. Cho là một trong số những loài động vật được thuần dưỡng sớm nhất. Trung bình chó có trọng lượng là từ một đến tám mươi ki-lô-gam.

Chó là giống vật nuôi đầu tiên được con người thuần hóa được cách đây 12.000 năm vào thời kỳ đồ đá. Tổ tiên của loài chó bao gồm cả cáo và chó sói (một loài động vật có vú gần giống như chồn sinh sống ở các hốc cây vào khoảng 400 triệu năm trước). Còn loài chó như chúng ta thấy ngày nay được tiến hóa từ một loài chó nhỏ, màu xám.

Lúc mới ra đời, chó con không có răng nhưng chỉ sau 4 tuần tuổi đã có thể có 28 chiếc răng. Bộ hàm đầy đủ của loài thú này là 42 chiếc.

Mắt chó có đến 3 mí: một mí trên, một mí dưới và mí thứ ba nằm ở giữa, hơi sâu vào phía trong, giúp bảo vệ mắt khỏi bụi bẩn. Tai của chúng thì cực thính, chúng có thể nhận được 35.000 âm rung chỉ trong một giây. Khứu giác của chúng cũng rất tuyệt vời. Người ta có thể ngửi thấy mùi thức ăn ở đâu đó trong nhà bếp nhưng chó thì có thể phân biệt từng gia vị trong nồi, thậm chí những chú chó săn còn tìm ra những cây nấm con con nằm sâu trong rừng, vì chúng có thể phân biệt gần 220 triệu mùi. Chó phân biệt vật thể đầu tiên là dựa vào chuyển động sau đó đến ánh sáng và cuối cùng là hình dạng. Vì thế thị giác của chúng rất kém. Ta có thấy vào mùa đông lạnh, thỉnh thoảng chó hay đuôi che lấy cái mũi ướt át, đấy là cách chúng giữ ấm cho mình.

Chó có đến 2 lớp lông: lớp bên ngoài như chúng ta đã thấy, còn lớp lót bên trong giúp cho chúng giữ ấm, khô ráo trong nhũng ngày mưa rét, thậm chí còn có nhiệm vụ "hạ nhiệt" trong những ngày oi bức.

Chó là loài động vật có bốn chân, mỗi bàn chân đều có móng vuốt sắc nhưng khi đi thì cụp vào. Chó có bộ não rất phát triển, xương quai hàm cứng. Đặc biệt, tai và mắt chó rất thính và tinh vào ban đêm. Chó vẫy đuôi để biểu hiện tình cảm. Chó là loài động vật có bộ phận tiêu hóa rất tốt.

Chó có đặc tính là chạy rất nhanh bằng bốn chân, tốc độ lao về phía trước khoảng từ bảy mươi đến tám mươi km một giờ. Hơn nữa, chó cũng có khả năng đánh hơi rất tài. Hiện nay chó hoang dã vẫn còn tồn tại, nhưng chó được thuần dưỡng như chó nhà, chó cảnh thì phổ biến hơn.

Chó thuần dưỡng có nhiệm vụ trông, giữ nhà và thường nặng từ mười lăm đến hai mươi ki-lô-gam, có tuổi thọ trung bình từ mười sáu đến mười tám năm. Loại chó bắt được tội phạm được gọi là chó nghiệp vụ, trinh thám, và thường rất to, cao, tai vểnh, hoạt động nhanh nhẹn, linh hoạt và thông minh. Chúng được nuôi rất công phu. Một số loại chó khác như chó săn thường rất khôn. Chó cứu hộ được dùng trong việc cứu nước ở các bến cảng, sân bay,... nơi xảy ra sự cố.

Ở một số nước trên thế giới, chó còn chuyên để kéo xe. Nhưng không hẳn là chỉ có ích, nó còn rất dễ bị bệnh, đó là bệnh "dại". Thường là thời gian đầu chó rất bình thường, ít người phát hiện ra để đề phòng. Khi bị chó dại cắn, lúc bấy giờ mới thấy rõ việc nguy hiểm đến tính mạng con người. Vì vậy cần phải tiêm phòng cho chó thường xuyên theo định kì để tránh bị mắc bệnh.

Chó là loài động vật rất có ích trong mọi lĩnh vực. Chó còn là bạn của con người bởi sự thông minh, lanh lợi, trung thành và nhiều tác dụng của nó. Chó được coi là loài động vật rất quan trọng và giúp việc đắc lực cho con người.

Con chó luôn ở bên cạnh ta trong phú quý cũng như trong lúc bần hàn, khi khoẻ mạnh cũng như lúc ốm đau. Nó ngủ yên trên nền đất lạnh, dù đông cắt da cắt thịt hay bão tuyết lấp vùi, miễn sao được cận kề bên chủ là được.

thanks nke hjhj:)>-:)>-:)>-
 
N

nhoxedkjd

úi làm bài hay wá xá tks nhìu
!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!
!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!
 
P

phumanhpro

Mình có 1 dàn bài đơn giản ở đây.Hi vọng bạn có thể sử dụng.
MB: - giới thiệu đồ vật ( sự phổ biến, tiện ích, cần thiết...)
- định nghĩa (dùng để làm gì..)
VD: Quạt máy là 1 vật dụng gia đình tiện ích dùng để thổi những hơi gió mát và làm giảm đi cái nóng bức oi ả của thời tiết.

TB: - nguồn gốc ra đời (nếu có)
- phân loại
- kiểu dáng, hình dáng
- cấu tạo
- cách sử dụng
- cách bảo quản
- giá thành
- thương hiệu nổi tiếng
- giá trị tiện ích (sử dụng, kinh tế )

KB: - vị trí của vật dụng từ lâu đời đến ngày nay
- ý thức giữ gìn

ngoài ra còn 1 số thông tin về quạt máy mình sưu tầm được:
QUẠT MÁY
Quạt máy là thiết bị chống nóng chủ yếu trong mùa hè vì nó đơn giản và kinh tế. Nhưng nếu sử dụng máy không hợp lý thì có thể ảnh hưởng không tốt đến sức khoẻ.
Không để quạt thổi lâu
Ngồi trước quạt lâu, nhiệt độ cơ thể sẽ giảm theo sự bốc hơi của mồ hôi, dẫn đến bị cảm, đau bụng. Thời gian ngồi quạt mỗi lần khoảng 30 - 60 phút là hợp lý. Khi bật quạt, nên ấn túp năng để quạt quay đi các hướng, không nên để cố định một chỗ.
Không nên để quạt thổi với tốc độ cao
Khi nhiệt độ môi trường vượt quá 30oC, nhiệt độ không khí đã gần với nhiệt độ cơ thể, nhiệt năng trong cơ thể người được phát tán chủ yếu nhờ vào sự bốc hơi của mồ hôi. Nếu để quạt thổi quá mạnh, nhiệt độ bề mặt da giảm, lỗ chân lông khép kín, nhiệt độ trong cơ thể không phát tán ra được sẽ làm cho người mệt mỏi, đau nhức lưng. Do vậy, chỉ nên dùng quạt ở tốc độ vừa, tạo ra những luồng gió nhẹ nhàng là được.
Không nên để quạt thổi quá gần
Không ít người vẫn lầm tưởng khi nóng, càng ngồi gần quạt càng mát, nhưng thực tế nếu ngồi gần quạt quá lâu sẽ càng mệt mỏi. Vì ở phía quạt thổi tới, mồ hôi trên da sẽ bốc nhanh, nhiệt độ giảm xuống, còn phía bên kia mồ hôi bốc hơi chậm khiến cho sự tuần hoàn máu và bài tiết mồ hôi ở hai phía của cơ thể có sự chênh lệch. Lúc này các cơ quan trong cơ thể cần phải được điều chỉnh lại để có sự cân bằng. Khi thời gian kéo dài, sẽ sinh ra mệt mỏi, cảm thấy khó chịu toàn thân. Tốt nhất là để quạt cách cơ thể trên 2 mét.
 
H

hienmai1999

tu lam ban nhe khong ai giup minh duoc dau muon khoi bun lay thi phai dung doi tay minh

bye.........bye
 
Last edited by a moderator:
P

phonghotboy

Nón lá có lịch sử lâu đời đã khắc trên trống đồng Ngọc Lũ, trên thạp đồng Đào Thịnh vào khỏang 2500-3000 năm. Nón lá gần với đời sống tạo nhiều nét bình dị, đoan trang, yêu kiều, duyên dáng cho người con gái Việt Nam và thực tiễn với đời sống nông nghiệp, một nắng hai sương.
Nón lá ở Việt Nam có nhiều loại khác nhau qua từng giai đoạn lịch sử:

Nón dấu : nón có chóp nhọn của lính thú thời xa xưa
Nón gò găng hay nón ngựa: sản xuất ở Bình Định làm bằng lá dứa đội khi cỡi ngựa
Nón rơm : Nón làm bằng cộng rơm ép cứng
Nón quai thao : người miền Bắc thường dùng trong lễ hội
Nón Gõ : Nón gõ làm bằng tre ghép cho lính hồi xưa
Nón lá Sen: cũng gọi là nón liên diệp
Nón thúng: thứ nón lá tròn bầu giống cái thúng.
Nón khua :Viên đẩu nón của người hầu các quan xưa
Nón chảo : thứ nón mo tròn lên như cái chảo úp nay ở Thái Lan còn dùng
Nón cạp: Nón xuân lôi đại dành cho người có tang
Nón bài thơ : ở Huế thứ nón lá trắng và mỏng có lộng hình hay một vài câu thơ
……..
Tuy có nhiều chủng lọai nhưng phổ biến nhất vẫn là nón lá.Phải nói rằng người Việt Nam ta từ nông thôn đến thành thị đều từng dùng nón lá nhưng có mấy ai quan tâm đến nón có bao nhiêu vành,đường kính rộng bao nhiêu?
Nón lá tuy giản dị rẻ tiền nhưng nghệ thuật làm nón phải khéo tay. Với cây mác sắc,họ chuốt từng sợi tre thành 16 nan vành một cách công phu rồi uốn thành vòng tròn trịa bóng bẩy. Có được khung nón,người ta còn phải mua lá hay chặt lá non còn búp ,cành lá có hình nan quạt nhiều là đơn chưa xòe ra hẳn đem phơi khô. Lá non lúc khô có màu trắng xanh,người mua phải phơi lá vào sương đêm cho bớt độ giòn.người ta mở lá từ đầu đến cuống lá ,cắt bỏ phần cuối cùng,rồi dùng lưỡi cày nóng và búi giẻ hơ trên thanh hồng kéo lên lá nón thành tờ giấy dài và mỏng,nổi lên những đường gân nhỏ,lựa những lá đẹp nhất để làm vành ngòai của nón.
Sau đó người ta dùng cái khung hình chóp ,có 6 cây sườn chính để gài 16 cái vành nón lớn nhỏ khác nhau lên khung.lọai khung này thường do người chuyên môn làm để kích thước khi lợp lá và chằm nón xong co thể tháo nón ra dễ dàng.Những lá nón làm xong được xếp lên khung,giữa 2 lóp lá lót một lượt mo nang thật mỏng và được buộc cho chắc.Tiếp là công đọan khâu, bàn tay người thợ thoăn thoắt kluồn mũi kijm len xuống sao cho lỗ khâu thật kín.
Nguời thợ khéo còn có tài lẩn chỉ,khéo léo giấu những nút nổi vào trong.Chiếc nón khi hòan chỉnh vừa bền vừa đẹp ,soi lên ánh mặt trời thấy kín đều.Nón rộng đường kính 41cm,người ta phết phía ngòai lớp sơn dầu mỏng để nước mưa không qua các lỗ kim mà vào trong.Để có môt chiếc nón như thế phải trải qua 15 khâu,từ lên rừng hái lá,sấy lá,mở,ủi,chọn lá,chắm ,cắt lá ....
Cũng chính vì mang đầy tính nghệ thuật mà con người luôn biết trân trọng sản vật văn hóa này. Ngay trog thời đại thông tin,tuy có số lượng không đông nhưng vẫn còn có những con người yêu văn hóa truyền thống mà bám trụ với nghề làm nón khó thì nhiều mà lời thì ít này. Họ đã cùng chung tay lập ra những làng nón truyền thống,nơi cung cấp số lượng lớn nón cho các tỉnh thành.
Có thể kể đến làng Phú Cam còn gọi là phường Phước Vĩnh; ngay ở trung tâm thành phố Huế, trên bờ nam sông An Cựu, làng Phú Cam nổi tiếng với nón bài thơ Huế đã xinh ở dáng lại nhã ở màu,mỏng nhẹ,soi lên ánh sáng thấy rõ những hình trổ giấy về phong cảnh Huếkèm theo lới thơ cài ở hai lớp lá. Hay xã Nghĩa Châu(Nghĩa Hưng) từ lâu nổi tiếng với nghề làm nón thanh thoát ,bền đẹp. Rồi nón Gò Găng ở Bình Định, nón lá ở làng Chuông (Thanh Oai,Hà Tây), tất cả tô đẹp thêm cho nét văn hóa nón độc đáo của Việt Nam.
Và rồi, tất nhiên,chiếc nón lá đi vào thơ ca nhẹ nhàng như mặc nhiên phải vậy.Nhà thơ Bích Lan đã từng miêu tả chịếc nón bài thơ Huế rằng:
Ngưới xứ Huế yêu thơ và nhạc Huế
Tà áo dài trong trắng nhẹ nhàng bay
Nón bài thơ e lệ nép trong tay
Thầm lặng bước những khi trời dịu nắng
Và ngay cả trong ca dao:
Nón này che nắng che mưa
Nón này để đội cho vừa đôi ta
Còn duyên nón cụ quai tơ
Hết duyên nón lá quai dừa cũng xong
Hình ảnh chiếc nón lá trong mắt nhà thơ là hình ảnh của người thiếu nữ thơ ngây trong tà áo dài thanh khiết,của người phụ nữ mộc mạc chân tình gắn đời với mảnh ruộng quê hương,của những mối tình thầm kín gửi qua bài thơ dấu trong nón lá.
Mỗi chiếc nón có một linh hồn riêng ,một ý nghĩa riêng.hiện nay ,Việt Nam ta có đến hàng chục lọai nón cổ truyền khác nhau,chứng minh cho nền văn hóa và đậm sắc nghệ thuật.Đời sống văn minh,phát triển nhung nón lá Việt Nam vẫn thuần túy nguyên hình của nó :giản dị,duyên dáng.Ở bvất cứ nơi đâu,từ rừng sâu hẻo lánh,trên đồng ruộng mênh mông,dọc theo sông dài biển cả,đều thấy chiếc nón lá ngàn đời không đổi thay.
 
P

phonghotboy

Trên thế giới, từ khắp bốn phương trời, từ nhiều nước trên thế giới, mỗi nơi lại có một kiểu nón, kiểu mũ khác nhau, nhưng có lẽ chiếc nón mang trong mình nhiều sắc thái bình dị và đoan trang yêu kiều, duyên dáng, đơn sơ thì không chiếc nón nào bằng chiếc nón Việt Nam.
Nón lá có lịch sử rất lâu đời. Hình ảnh tiền thân của chiếc nón đã được chạm khắc trên trống đồng Ngọc Lữ, trên thạp đồng Đào Thịnh vào khoảng 2500 - 3000 năm về trước.
Nón lá trông thật giản dị nhưng để tạo nên được một chiếc nón lá đẹp và bền thì lại là cả một quá trình công phu và tỉ mỉ. Vật dùng làm nón lá chỉ bao gồm từ lá chỉ và khung nón. Lá thì được lấy từ lá kè, lá tơi hay lá nón (lá bồng). Với loại lá non còn búp, chưa xòe ra hẳn, người ta phơi khô, rồi đem ủi cẩn thận. Người ta “ủi” bằng cách lấy giẻ nhúng nước, đem hơ trên lửa cho nóng trước khi chà nhẹ lên lá, để “ủi” cho lá thẳng và những đường gân lá cũng bằng với mặt lá, đoạn đem treo lên từng chùm để giữ lá cho thẳng.
Sợi chỉ khâu lá thường là sợi cước .Khung nón thường là do những người thợ có tay nghề chuyên môn làm sẵn, có 16 vành.
Có khuôn rồi, người làm nón xếp hai, ba lớp lá đã được ủi sẵn lên khung. Lá mỏng lợp ra ngoài, lá dày lợp bên trong. Muốn nón đội chắc và bền, thì lợp toàn lá dày. Vành nón cũng phải chuốt mỏng hơn, để nón đội được nhẹ nhàng, trang nhã. Giai đoạn chót là chằm nón : dùng chỉ cước khâu lại các lớp lá vô vành. Đến vành cuối cùng là vành lớn nhất thì người chằm nón dùng một vành tre to, kèm theo vành tre nhỏ, để kẹp lá vào giữa cho chắc, cho lá khỏi tụt ra và xơ rách. Việc may hay viền vành nón cuối cùng này, người làm nón gọi là nút vành.
Chiếc nón lá ngày trước ngoài việc che mưa, che nắng còn là một loại trang sức rất có duyên,mang nét trữ tình thầm kín của người con gái Việt Nam. Và có lẽ không ở nơi đâu có nhiều nữ sinh duyên dáng với mái tóc đen dài óng ả phủ kín bờ vai, với tà áo dài trắng tha thướt và chiếc nón bài thơ e ấp như ở Huế. Mỗi buổi tan trường, các cô nữ sinh Đồng Khánh ngày xưa, với cả rừng nón nhấp nhô, làm đẹp các ngả đường và tạo nét đẹp lãng mạn trên vai cầu Trường Tiền bắc qua dòng sông Hương xanh biếc. Những cô gái Huế thường thẹn thùng kéo nón che nghiêng ấy đã khiến bao tâm hồn phải bâng khuâng : “Sao em biết anh nhìn mà nghiêng nón ?/Chiều mùa thu mây che có nắng đâu” (Trần Quang Long).
Đối với người dân quê chiếc nón lá màu ngà có biết bao công dụng. Ngoài việc dùng nón thường xuyên để che mưa, che nắng, bác nông dân hay bà mẹ quê, mỗi khi lỡ đường, khát nước, chỉ việc ghé xuống sông dùng nón múc nước uống, giản tiện vô cùng. Giải cơn khát xong, nón lại được phe phẩy quạt để tìm chút hơi mát, nhất là khi phải đi đường xa trong những ngày mùa hè nóng nực. Bên một cánh đồng, em bé chăn trâu nằm dưới gốc cây, cả bác thợ cày cũng vậy, dùng nón che mặt, để vừa tránh nắng, vừa ngăn ruồi muỗi khỏi quấy rầy giấc ngủ trưa hiền hòa..
Ngày nay, nón lá chỉ còn được sử dụng ở thôn quê, ít khi thấy ở thành phố.
Chiếc nón lá Việt Nam, đâu chỉ là vật tiện dụng mà còn là nét đẹp thầm kín của văn hóa Việt Nam, sẽ còn tồn tại mãi, tôi chắc thế, dù cuộc sống có đổi thay, hiện đại đến đâu chăng nữa
 
D

datini

Mình có 1 dàn bài đơn giản ở đây.Hi vọng bạn có thể sử dụng.
MB: - giới thiệu đồ vật ( sự phổ biến, tiện ích, cần thiết...)
- định nghĩa (dùng để làm gì..)
VD: Quạt máy là 1 vật dụng gia đình tiện ích dùng để thổi những hơi gió mát và làm giảm đi cái nóng bức oi ả của thời tiết.

TB: - nguồn gốc ra đời (nếu có)
- phân loại
- kiểu dáng, hình dáng
- cấu tạo
- cách sử dụng
- cách bảo quản
- giá thành
- thương hiệu nổi tiếng
- giá trị tiện ích (sử dụng, kinh tế )

KB: - vị trí của vật dụng từ lâu đời đến ngày nay
- ý thức giữ gìn

ngoài ra còn 1 số thông tin về quạt máy mình sưu tầm được:
QUẠT MÁY
Quạt máy là thiết bị chống nóng chủ yếu trong mùa hè vì nó đơn giản và kinh tế. Nhưng nếu sử dụng máy không hợp lý thì có thể ảnh hưởng không tốt đến sức khoẻ.
Không để quạt thổi lâu
Ngồi trước quạt lâu, nhiệt độ cơ thể sẽ giảm theo sự bốc hơi của mồ hôi, dẫn đến bị cảm, đau bụng. Thời gian ngồi quạt mỗi lần khoảng 30 - 60 phút là hợp lý. Khi bật quạt, nên ấn túp năng để quạt quay đi các hướng, không nên để cố định một chỗ.
Không nên để quạt thổi với tốc độ cao
Khi nhiệt độ môi trường vượt quá 30oC, nhiệt độ không khí đã gần với nhiệt độ cơ thể, nhiệt năng trong cơ thể người được phát tán chủ yếu nhờ vào sự bốc hơi của mồ hôi. Nếu để quạt thổi quá mạnh, nhiệt độ bề mặt da giảm, lỗ chân lông khép kín, nhiệt độ trong cơ thể không phát tán ra được sẽ làm cho người mệt mỏi, đau nhức lưng. Do vậy, chỉ nên dùng quạt ở tốc độ vừa, tạo ra những luồng gió nhẹ nhàng là được.
Không nên để quạt thổi quá gần
Không ít người vẫn lầm tưởng khi nóng, càng ngồi gần quạt càng mát, nhưng thực tế nếu ngồi gần quạt quá lâu sẽ càng mệt mỏi. Vì ở phía quạt thổi tới, mồ hôi trên da sẽ bốc nhanh, nhiệt độ giảm xuống, còn phía bên kia mồ hôi bốc hơi chậm khiến cho sự tuần hoàn máu và bài tiết mồ hôi ở hai phía của cơ thể có sự chênh lệch. Lúc này các cơ quan trong cơ thể cần phải được điều chỉnh lại để có sự cân bằng. Khi thời gian kéo dài, sẽ sinh ra mệt mỏi, cảm thấy khó chịu toàn thân. Tốt nhất là để quạt cách cơ thể trên 2 mét.

hay lắm bạn!
Và chữ kí của bạn cũng thật sự rất hay
 
N

nhox_cute_1612

ai giúp mình về bài thuyết minh về đặc điểm của thể thơ thất ngôn tứ tuyệt với !!
thứ 3 mình thi rồi!!!!!
mình cần gấp rồi!!!!!!!!!
 
H

hathaovi

Nón lá là một vật dụng quen thuộc từ ngàn xưa, nó giúp cho con người che nắng che mửất tiện lợi và nguyên liệu làm nên một chiếc nón lá là lá cây trong rừng nhưng khi cuộc sống hiện đại người ta có thể thay thế nón lá bằng ô dù, nón vải, nón nhựa. mặc dù vậy chúng ta hãy quan tâm đến hình ảnh chiếc nón như một người bạn thân thiết với hình ảnh con người việt nam
Quá trình làm một chiếc nón lá rất công phu người ta lấy lá nón trong rừng về phơi khô, ủi phẳng . sau đó làm khung nón bằng thanh tre, đan lá nón lên trên cho kín khung sau đó làm một lớp mo tiếp tục là 1 lớp lá kín che kín lớp mo. sau đó , người dùng 1 loại sợ nhỏ có thể là sợ cước ,nhựa,... để khâu các lớp lá vào khung nón lần lượt theo từng vòng và vòng cuối cùng có đường kính lớn nhất gọi là vành nón. tiêu chí đánh giá một chiếc nón đẹp yêu cầu đường khâu pahỉ thật nhỏ , thât khéo léo, lá nón phải thật trắng . để cho chiếc nón thêm màu sắc người ta thường trang điểm thêm quai nón bằng lụa. nguyên liệu có sẵn trong rừng nên giáthành của nón khá rẻ. ở vệt nam có nhiều làng nghề đan nón nhưng nổi tiếng nhất là nón Chuông(Hà Tây), nón Huế,...ở nam bộ mùa mưa kéo dai nên người ta đan nón bằng lá dừa. độ bèn có thể kéo dài được hai mùa mưa . chiếc nón lá ngày nay đẽ thay bằng "nón bảo hiểm" đối vơid ồng bào ở thành phố nhưng ở nông thôn thì ngừoi ta không sử dụng phương tiện giao thông hiện đại
nón lá trở thành nét văn hóa của người việt namnhư điệu múa nón hoặc những bức tranh, ảnh chụp thiễu nữ bên hồ sen thì bao giờ cũng có chiếc nón lá bên cạnh làm duyên. riêng loại nón ta thường thấy các nghệ sĩ hát dâ ca dùng co sđường kính như một cái mâm bằng lá cọ đó là nón ba tầng. bảo quản nón sau trời mưa để tránh ẩm mối trôgn rất xấu .
bây giở dù không được đội nón nữa nhưng em vẫn rất thích chiếc nón lá
 
H

hathaovi

Đề bài: Thuyết minh về chiếc nón lá của người Việt

Chiếc nón lá là người bạn thủy chung, gần gũi của người phụ nữ Việt Nam. Chiếc nón đã được chạm khắc trên những cổ vật như trống đồng Ngọc Lũ, trên thạp đồng Đào Thịnh vào 2500-3000 năm về trước.

Theo sự phát triển của lịch sử qua các thời đại, nón cũng có nhiều biến đổi về kiểu dáng và chất liệu. Lúc đầu khi chưa có dụng cụ để khâu thắt, nón được tết đan. Còn loại nón khâu như ngày nay xuất hiện phải nhờ đến sự ra đời của chiếc kim, tức là vào thời kỳ người ta chế luyện được sắt (khoảng thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên).

Nguyên liệu làm nón không phức tạp. Ở nơi nào cũng vậy, muốn làm được một chiếc nón phải dùng lá của một loại cọ nhỏ mọc hoang để lợp, dùng một loại sợi rất dai lấy từ bẹ cây móc (ngày nay người ta thường dùng sợi chỉ nilon) để khâu và tre làm vành. Tàu lá nón khi đem về vẫn còn xanh nhăn nheo, được đem là bằng cách dùng một miếng sắt đốt nóng, đặt lá lên dùng nắm giẻ vuốt cho phẳng. Lửa phải vừa độ, nếu nóng quá thì bị giòn, vàng cháy, nguội quá lá chỉ phẳng lúc đầu, sau lại nhăn như cũ. Người ta đốt diêm sinh hơ cho lá trắng ra, đồng thời tránh cho lá khỏi mốc.

Tre chọn ống dài vuốt nhọn, gác lên dàn bếp hong khói chống mối mọt, dùng làm vòng nón. Nón Chuông (làng nón nổi tiếng Việt Nam ở làng Chuông, huyện Thanh Oai - Hà Nội) có 16 lớp vòng. Con số 16 là kết quả của sự nghiên cứu, lựa chọn qua nhiều năm, cho đến nay đã trở thành một nguyên tắc không thay đổi. Nhưng vẻ đẹp của chiếc nón chủ yếu nhờ vào đôi bàn tay khéo léo của người thợ tạo nên. Những mũi kim khâu được ước lượng mà đều như đo. Những sợi móc dùng để khâu thường có độ dài, ngắn khác nhau. Muốn khâu cho liên tục thì gần hết sợi nọ phải nối tiếp sợi kia. Và cái tài của người thợ làng Chuông là các múi nối sợi móc được dấu kín, khiến khi nhìn vào chiếc nón chỉ thấy tăm tắp những mũi khâu mịn màng.

Các cô gái Việt Nam chăm chút chiếc nón như một vật trang sức, đôi khi là vật để trao đổi tâm tư tình cảm của riêng mình. Người ta gắn lên đỉnh của lòng nón một mảnh gương tròn nho nhỏ để các cô gái làm duyên kín đáo. Công phu nhất là vừa vẽ chìm dưới lớp lá nón những hoa văn vui mắt, hay những hình ảnh bụi tre, đồng lúa, những câu thơ
 
Top Bottom