I - Mở bài:
Nguyễn Dữ là một trong những cây bút mở đầu nền văn xuôi chữ Hán. Ông đã đi tiếp con đường của thầy mình là Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm – học giỏi, thi đỗ làm quan rồi treo ấn từ quan về ở ẩn “đóng cửa, viết sách”. Trong thời kì ẩn dật, Nguyễn Dữ đã gia công sưu tầm, sao chép, biên soạn những câu chuyện kì dị trong dân gian để cho ra đời tập văn xuôi chữ Hán “ Truyền kì mạn luc”. Trong đó, “ Chuyện người con gái Nam Xương” để lại cho người đọc những ấn tượng sâu sắc về cuộc đời, số phận của Vũ Nương, một nàng con gái đẹp người, đẹp nết.
II - Thân bài:
Ngay từ đầu câu chuyện, Vũ Nương đã được giới thiệu là một người con gái “ thuỳ mị nết na, lại thêm có tư dung tốt đẹp”. Về làm dâu nhà họ Trương, Vũ Nương luôn biết giữ gìn khuôn phép “ chưa từng để vợ chồng phải đến mức thất hoà”. Thời buổi chiến tranh loan lạc, chồng phải đi lính đánh giặc Chiêm, Vũ Nương ở nhà lo bề gia thất, phụng dưỡng mẹ già, nuôi dạy con thơ. Tiễn chồng ra đi, Vũ Nương không hề mơ tưởng đến việc chồng được “ đeo ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ ” mà nàng chỉ mong “ ngày về được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Nếu không yêu thương chồng tha thiết, làm sao nàng có được niềm mong mỏi bình dị mà thân thương như vậy.
Tình cảm yêu thương chồng còn bộc lộ ở nỗi nhớ mênh mang mỗi khi “thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào nguôi được”. Tình yêu thương chồng của Vũ Nương thật bình dị mà sâu lắng biết là bao.
Ở nhà, đạo dâu con, nghĩa vợ chồng, tình mẹ con, nàng đều giữ gìn trọn vẹn, chu tất. Người mẹ chồng vì thương nhớ con mà ốm nặng, một tay Vũ Nương săn sóc thuốc thang, lễ bái thần Phật và lựa lời khôn khéo khuyên lơn. Trước khi mất, người mẹ chồng vẫn còn cảm thấy hạnh phúc vì có đứa con dâu hiếu thảo : “ sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn. Xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”.
Lời chúc phúc của người mẹ chồng đã không bao giờ thành sự thật. Tưởng rằng hạnh phúc sẽ mỉm cười với Vũ Nương sau những tháng ngày hy sinh, chờ đợi. Nhưng ,ngày Trương Sinh trở vể cũng là lúc bi kịch cuộc đời nàng xảy ra. Câu chuyện của bé Đản, đứa con trai vừa lên ba tuổi, về “ một người đàn ông đêm nào cũng đến” đã làm cho Trương Sinh nghi ngờ. Với bản tính hay ghen cộng thêm tính gia trưởng, thất học, Trương Sinh đối xử với vợ hết sức tàn nhẫn. Giấu biệt lời con nói, Trương Sinh đã “ mắng nhiếc nàng và đánh đuổi đi” mặc cho Vũ Nương hết sức phân trần, mặc cho “hàng xóm can ngăn cũng chẳng ăn thua gì”. Bi kịch dâng tràn đến đỉnh điểm, không cách gì biện bạch được, Vũ Nương đành chọn con đường kết thúc cuộc đời mình ở bến Hoàng Giang để tự minh oan.
Thật ra, nỗi bất hạnh của Vũ Nương không phải bắt đầu ở tấn bi kịch này. Nỗi bất hạnh đến với Vũ Nương từ khi nàng chấp nhận cuộc hôn nhân với Trương Sinh. Từ đầu, ta đã nhận ra đây là một cuộc hôn nhân không bình đẳng. Vũ Nương vốn “ con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”, còn Trương Sinh muốn lấy được Vũ Nương chỉ cần “ nói với mẹ đem trăm lạng vàng cưới nàng về làm vợ”. Sự cách bức ấy cộng thêm cái thế của người chồng, người đàn ông trong chế độ nam quyền phong kiến đã khiến cho Trương Sinh tự cho mình cái quyền đánh đuổi vợ không cần có chứng cứ rõ ràng. Trong những ngày làm dâu nhà họ Trương, Vũ Nương cũng đâu hạnh phúc hơn gì! Nàng phải luôn chịu đựng sự xét nét “ phòng ngừa quá sức” của chồng.
Lấy chồng không được bao lâu thì niềm vui “nghi gia nghi thất” của Vũ Nương bị mất đi bởi chồng “có tên trong số lính đi vào loại đầu”. Nàng thiếu phụ tuổi xuân còn phơi phới đã phải gánh chịu nỗi buồn “chiếc bóng năm canh” của đời người chinh phụ.
“Mặt biếng tô miệng càng biếng nói
Sớm lại chiều dòi dõi nương song
Nương song luống ngẩn ngơ lòng
Vắng chàng điểm phấn tô hồng với ai”
(Chinh phụ ngâm khúc – Đoàn Thị Điểm.)
Rồi gánh nặng gia đình chồng cộng thêm noi cô đơn vì phòng không gối chiếc đã bào mòn tuổi xuân của Vũ Nương. Ta có thể cảm nhận được nỗi vất vả của nàng qua những vần điệu ca dao cổ:
“ Có con phải khổ vì con
Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng”
Hình như số phận của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến ngày xưa đều có chung nỗi bất hạnh như thế!
Ở phần sau của câu chuyện, ta thấy Vũ Nương được sống sung sướng dưới Thủy cung, được kề cận với Linh Phi, vợ vua biển Nam Hải nhưng không vì thế mà ta thấy nàng hạnh phúc. Và làm sao có thể hưởng thụ hạnh phúc cho được khi quyền làm mẹ,làm vợ của nàng vĩnh viễn không còn? Bi kịch vẫn đeo bám theo Vũ Nương vào tận chốn Thủy cung huyền bí. Người đọc càng cảm thấy xót xa hơn khi nghe câu nói của nàng ở cuối truyện: “ Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng trở về nhân gian được nữa”. Âm dương đã cách trở đôi đường. Hạnh phúc bị tan vỡ khó lòng hàn gắn lại được. Kết thúc câu chuyện bi đát này là một khoảng vắng mênh mông, mờ mịt… Đằng sau yếu tố hoang đường, câu chuyện về nàng Vũ Nương mang đậm tính hiện thực và thấm đẫm tinh thần nhân đạo.
Câu chuyện kể với nhiều tình tiết bất ngờ. Cách kết thúc có hậu cộng với các chi tiết kì ảo hoang đường trong câu chuyện đã thu hút người đọc, giúp người đọc cảm thông hơn với cuộc đời và số phận của Vũ Nương.
III - Kết bài:
Câu chuyện đã kết thúc, nhưng hình ảnh Vũ Nương vẫn hiện lên với tất cả vẻ đẹp của tấm lòng vị tha, chung thủy. Phẩm chất sáng ngời đó cùng với câu chuyện về cuộc đời, nỗi oan khuất của nàng mãi mãi sống trong lòng người như một bản cáo trang về chế độ phong kiến nam quyền bất công, độc đoán.
“ Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương…” ( Lê Thánh Tôn)