III. Giai đoạn tân kiến tạo: diễn ra trong Tân sinh đại cách đây 65 triệu năm.
- Diễn ra mạnh trên lãnh thổ Việt Nam do vị trí trên bình đồ kiến tạo khu vực.
- Mang tính kế thừa các kiến trúc cổ.
- Hoạt động nâng và sụt diễn ra theo từng đợt, làm thành các bậc địa hình trên lãnh thổ Việt Nam với 6 chu kỳ.
Bề mặt bán bình nguyên cổ paleogen hình thành cách đây 65 đến 38 triệu năm trong điều kiện khí hậu nóng ẩm, các hoạt động ngoại sinh đã san bằng các khối núi, lấp đầy các vùng trũng bằng các trầm tích hồ và các bể than, dầu khí.. Bề mặt này sau được nâng lên và thấy ở độ cao 2100-2200 m trên dãy Fanxipan.
Bề mặt bán bình nguyên cổ paleogen bị phá vỡ vào Miocen sớm (N11) khi vận động tạo núi hymalya tác động nâng cao lãnh thổ nước ta, tạo nên chu kỳ 1. cuối chu kỳ 1 hình thành bán bình nguyên ở độ cao 1500-1800m ở Sapa.
Chu kỳ 2 diễn ra vào mioxen muộn (N12) làm địa hình nâng cao hơn, cắt xẻ bề mặt bán bình nguyên của chu kỳ 1. cuối chu kỳ 2 lại hình thành bán bình nguyên mà di tích còn thấy trên độ cao 1000-1400 m (ở đà lạt nằm trên độ cao 1500-1600 m).
Chu kỳ 3 diễn ra vảo Pliocen sớm (N21) cách đây khoảng 5 triệu năm với cường độ nâng mạnh, trung bình 500 m, cực đại đến 1200-1500m như các dãy núi Fan xi pan, Pu si lung. Bề mặt bán bình nguyên của chu kỳ 3 hiện nằm trên độ cao 600-900m, khí hậu nóng ẩm.
Chu kỳ 4 diễn ra vào Pliocen muộn (N22), nâng mạnh ở nam trung bộ, còn ở miền bắc nâng ở mức trung bình . đi theo là hoạt động phun trào bazan mạnh ở tây nguyên và nam trung bộ. Trong trầm tích của chu kỳ 4 đã tìm thấy hoá thạch và di chỉ của người vượn. Chu kỳ 4 để lại di tích trên độ cao 200-600m. khí hậu bắt đầu lạnh dần do sự xâm nhập của không khí lạnh từ phương bắc xuống.
Chu kỳ 5 diễn ra vào Pleistocen sớm-giữa (QI-II) trong đệ tứ cách đây 2 triệu năm đã nâng cao và cắt xẻ bề mặt bán bình nguyên của chu kỳ 4 và làm sụt võng châu thổ sông Cửu Long, Hoạt động nâng sụt kèm phun trào bazan ở đắc lắc và đông nam bộ. Hình thành các đảo núi lửa ngoài biển như Cồn Cỏ, Lý Sơn, Phú Quý.
Di tích của địa hình chu kỳ 5 là các trầm tích phù sa cổ ở đông nam bộ, các đụn cát đỏ bình thuận, các thềm biển trên 20 m; các thềm sông 25-45 m và bề mặt bán bình nguyên là các bậc thềm xâm thực và xâm thực - tích tụ ở vùng núi trên độ cao 25-200 m.
Chu kỳ 6 bắt đầu vào Pleistocen muộn (QIII) kéo dài đến tận ngày nay với cường độ yếu. Các trầm tích của chu kỳ này là các nham tướng vũng vịnh ven biển, các trầm tích sông, hồ. Chu kỳ này gắn với đợt băng hà wurm và biển tiến Flandrian cách đây khoảng 17 đến 10 nghìn năm, các đợt ngưng nghỉ của biển tiến hình thành các thềm cát trắng cao 4-5 m, các thềm biển cao 2 m.
Đảo hòn Tro ở phía nam đảo Phú Quý hình thành năm 1923 là sản phẩm của chu kỳ 6; hàng loạt các suối nước nóng là kết quả của chu kỳ hoạt động này.
Hiện nay vẫn còn các hoạt động của động đất ở điện biên và trên dải đất từ tây bắc xuống bắc Trung bộ.
Vào Pleistocen khí hậu lạnh dần (sau vận động tạo núi Hymalaya) làm thay đổi cảnh quan, làm đa dạng các giống loài sinh vật ở Việt Nam. khí hậu nóng trở lại vào Holocen (Qiv)
Quá trình sinh khoáng và khoáng sản
Quá trình sinh khoáng liên quan chặt chẽ đến lịch sử hình thành lãnh thổ. Nếu tính mối tương quan giữa nguồn tài nguyên khoáng sản với tỷ lệ diện tích thì Việt Nam là nước giàu khoáng sản trên thế giới.
Đã phát hiện hàng trăm mỏ và hàng nghìn điểm quặng. Một số mỏ lớn như các mỏ than, dầu khí, sắt, crôm, đồng, thiếc, nhôm, đất hiếm.
Các đứt gãy hoạt động như những kênh dẫn, do vậy các mỏ thường tập trung dọc các đứt gãy.
Giai đoạn tiền Cambri thường hình thành các mỏ sắt, mangan, vàng, titan, niken.
Các vận động cổ sinh đại thường tạo nên các mỏ chì, kẽm, crôm, đồng
Các vận động trung sinh đại liên quan đến hình thành các mỏ thiếc, vonfram, chì, kẽm.
Liên quan đến các xâm nhập macma mafic là crôm, niken, côban, đồng sắt, titan, pyrit, amiăng v.v. liên quan đến macma felsic là các mỏ đa kim (bạc, chì, kẽm), angtimoan, thuỷ ngân, vàng, thiếc, vonfram, fluo v.v..