BÀI LÀM CỦA NHOM VĂN 1
Câu 2:
Trong tiến trình phát triển của lịch sử văn học Việt Nam, thời kì văn học 1930-1945 có ý nghĩ hết sức quan trọng. Ở thời kì này, đất nước ta lầm than, không lối thoát. Xã hội ta đã có nhiều thay đổi lớn dẫn đến những biến đổi sâu sắc trong ý thức và tâm lý con người. Trong bối cảnh đó, nền văn học Việt Nam ngày càng chứng tỏ sức mạnh của mình trong cuộc đấu tranh của dân tộc, đồng thời đã vượt ra ngoài giới hạn ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa để tiếp xúc với thế giới hiện đại. Văn học giai đoạn này đã thoát khỏi hệ thống thi pháp văn học trung đại, nó phá bỏ một hệ thống thi pháp đã tồn tại và đã được khẳng định qua nhiều kiệt tác bất hủ, đồng thời xây dựng một hệ thống thi pháp mới trên cơ sở tiếp nhận ảnh hưởng của văn hoá nhân loại, và kế thừa những tinh hoa của văn hoá truyền thống. Đặc biệt trong quá trình phát triển của thời kì này, nền văn học nước ta đã có sự phân hoá phức tạp thành nhiều trào lưu văn học trong đó nổi bật với ba trào lưu chính: văn học lãng mạn, văn học hiện thực và văn học cách mạng.
Nền văn học Việt Nam luôn luôn gắn liền với các thời kì lịch sử của dân tộc . Và một sự kiện lịch sử trong giai đoạn 1930-1945 đã tác động sâu sắc đến nền văn học nước ta đó là sau khi những phong trào Cách mạng Yên Bái vào đêm mồng 9 tháng 2 năm 1930 do Nguyễn Thái Học và Nguyễn Ðức Chính bị thất bại, một không khí chán nản, u hoài, yếm thế bao trùm đời sống. Thanh niên lớn lên không còn có lý tưởng để phụng sự. Con đường yêu nước bế tắc, họ thoát ly trong những tình cảm cá nhân nhất là yêu đương. Trào lưu văn học lãng mạn bắt đầu từ đấy. Đặc điểm chính của văn học lãng mạn là sự đào sâu vào cái tôi nội cảm, diễn tả ước mơ, khát vọng của cá nhân, đề cập đến những số phận cá nhân với thái độ bất hoà, bất lực trước hiện thực tầm thường, tù túng. Văn học lãng mạn 1930-1945 khác văn học lãng mạn trước đó, là do sự tư sản hóa của ý thức và sự âu hóa của thẩm mỹ đã đến độ cao. Ðối với cái thực tại xã hội, thái độ của nhà văn lãng mạn là thái độ chủ quan không phải cuộc sống thế nào thì họ nhận thức thế ấy, trái lại tác giả nhìn đời qua lăng kính của mình, qua những khát vọng, những mộng tưởng của mình. Không lý giải được hiện thực, không thấy rỏ con đường phát triển của hiện thực, người cầm bút đưa ra những quan điểm trừu tượng, những giải pháp không tưởng. Xuân Diệu khi bàn về văn học lãng mạn, cũng nói: "trong nền văn học của các dân tộc, nằm chung trong lịch sử văn hóa nhân loại. Khi cái tôi" bắt đầu có ý thức là có mình thì theo tôi khái niệm có phần cũng tương tự như khi một em thiếu niên, đồng thời với sự dậy thì, thời trong tâm tình em ấy cũng từ trạng thái hồn nhiên vô tâm, chuyển sang tự giác, tự ý thức, tự biết là "mình đây" có một sự phấn chấn nhạy cảm, ham sống, yêu đời..." (tìm hiểu Tản Ðà). Một trong những đại diện tiêu biểu của dòng văn học này là nhóm Tự Lực Văn Ðoàn. Từ năm 1932-1945, Tự Lực Văn Ðoàn chiếm ưu thế tuyệt đối trên văn đàn công khai, sách báo của họ in đẹp nhất, bán chạy nhất, có một ảnh hưởng nhất định trong giới trí thức tư sản và tiểu tư sản thành thị. Khi ra đời, Tự Lực Văn Ðoàn có đề ra tôn chỉ mục đích rõ ràng: "Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có chí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ. Theo chủ nghĩa bình dân, không có tính cách trưởng giả quý phái. Tôn trọng tự do cá nhân. Làm cho người ta biết đạo Khổng không hợp thời nữa. Ðem phương pháp Thái Tây áp dụng vào văn chương An Nam"..Tiểu thuyết “Tự lực văn đoàn” chủ yếu đi vào khai thác những vấn đề như đề tài chống lễ giáo phong kiến, đòi quyền tự do yêu đương, đề cao hạnh phúc cá nhân... với các tác phẩm tiêu biểu : "Nửa chừng xuân", "Ðoạn tuyệt", "Lạnh lùng", "Ðôi bạn", "Gia đình", "Thoát ly", "Thừa tự"... Giai đoạn sau, trong các tác phẩm của Tự lực văn đoàn, vấn đề chống phong kiến đã không còn được quan tâm nhiều, xu hướng bình dân xuất hiện. Đây là thời kỳ mặt trận dân chủ, tiểu thuyết Tự lực văn đoàn lúc này quan tâm đến cuộc sống của tầng lớp dân nghèo. Nói chung, “xu hướng bình dân" của họ mang tính chất cải lương. Một số tác phẩm của đề tài này là: “Hai vẻ đẹp" của Nhất Linh, "Con đường sáng" của Hoàng Ðạo, Gia đình" của Khải Hưng,.. Về thơ, trào lưu văn học lãng mạn nổi bật với phong trào thơ mới. Hàng loạt các tác phẩm ra đời mang lại tên tuổi cho nhiều tác giả. Đó là Lưu Trọng Lư- một lối thơ quen thuộc của dân tộc- ông đến với thơ bằng cả tâm hồn sầu mộng của mình. Trong thơ ông, mọi hình ảnh mọi âm thanh của cuộc sống và cả cái tôi cá nhân đều được đưa vào thế giới mộng tưởng. Đó là Thế Lữ với những lời thơ say sưa thoát li hiện thực nhưng những sự kiện lớn lao của lịch sử vẫn còn âm vang. Thơ ông ấp ủ tinh thần dân tộc và khát khao tự do, là tiếng vọng xa xôi của phong trào 1930-1931. Thời kì 1936-1939, Xuân Diệu xuất hiện chiếm hẳn địa vị độc tôn trên thi đàn. Hoài Thanh đã lên tiếng khẳng định vị trí của Xuân Diệu: “Câu văn tuồng bỡ ngỡ ấy chính là Xuân Diệu hơn người. Dòng tư tưởng quá sôi nổi, không thể đi theo đường có sẵn. Ý văn xô đẩy, khiến câu văn phải lung lay”, “Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này” (“Thi nhân Việt Nam”). Một số tên tuổi tiêu biểu khác như Nguyễn Bính (với các tác phẩm chân quê viết bằng những vần thơ lục bát tài hoa diễn tả hồn quê đất nước), Hàn Mặc Tử (nhà thơ của những vần thơ “điên” mãnh liệt). Tất cả đã góp phần hình thành nên những nét đặc sắc, hoà vào những cung bậc của nền văn học Việt Nam thời kì 1930-1945.
Một trào lưu văn học cũng thuộc bộ phận văn học hợp pháp thời bấy giờ bên cạnh trào lưu văn học lãng mạn, đó là trào lưu văn học hiện thực. Xu hướng văn học này quan tâm đến việc diễn tả và lý giải một cách chân thực và chính xác quá trình phát triển của hiện thực khách quan thông qua việc khắc học những hình tượng điển hình. Hiện thực cuộc sống với những làm than cơ cực của các tầng lớp nhân dân đêù được các nhà thơ, nhà văn đưa vào tác phẩm của mình để phê phán xã hội trê tinh thần dân chủ và nhân đạo. Đó là Ngô Tất Tố với tập phóng sự “Việc làng” với những hủ tục nặng nề ở nông thôn Việt Nam, với Tiểu thuyết “Lều chõng”, ông đã trình bày về chế độ khoa cử phong kiến một cách tỉ mỉ, có nhiều giá trị tư liệu, hay với “Tắt đèn” và đề tài thuế khoá: chủ yếu là thuế thân, một thứ tai họa khủng khiếp của nông thôn, làm điêu đứng bao số phận người nông dân. Đó cũng Là Vũ Trọng Phụng- một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc nhất của giai đoạn văn học này. Trong các tác phẩm của ông, hiện lên rõ nét là bộ mặt xã hội Việt Nam cả nông thôn và thành thị với tiếng cười châm biếm sắc sảo, sâu cay. Về tiểu thuyết, có các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng như: Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê,…Về phóng sự, có thể kể đến các tác phẩm: "Cạm bẫy người", "Kỹ nghệ lấy Tây",…Cũng nhờ các tác phẩm đó, Vũ Trọng Phụng đã được tôn vinh là “ông vua phóng sự đất Bắc”. Thêm Một nhà văn tiêu biểu cho trào lưu văn học này là Nam Cao. Sáng tác của ông tập trung vào hai mảng đề tài: Đề tài người trí thức tiểu tư sản và đề tài viết về người nông dân. Hầu hết các nhân vật đều ít nhiều là hình ảnh bản thân Nam Cao. Ðó là những học sinh thất nghiệp, những giáo khổ trường tư, những nhà văn nghèo bất đắc chí ... Họ "phải bán dần sự sống để giữ cho mình khỏi chết" (“Quên điều độ”). Nam Cao viết về những nỗi đau quằn quại trong tâm hồn, nhiều khi có tính bi kịch của họ. Họ thường ôm ấp hoài bão về sự nghiệp tinh thần nhưng ước mơ mâu thuẫn với hiện thực: hàng ngày họ bị “chuyện áo cơm ghì sát đất” và đau đớn nhận ra rằng mình chỉ là một người thừa. Tác phẩm tiêu biểu của mảng đề tài này là tiểu thuyết "Sống mòn" và những truyện ngắn như "Đời thừa", "Trăng sáng", "Quên điều độ”, “Bài học quét nhà”,… Nam Cao chú ý đến những người nông dân thấp cổ bé họng, bị áp bức bất công, chịu số phận đen đủi, hẩm hiu. Ông đã đanh thép lên án xã hội chà đạp người nông dân lương thiện và dõng dạc bênh vực nhân phẩm của họ. Có thể nói, trước Cách mạng tháng Tám, ít có nhà văn nào hiểu được một cách sâu xa ngõ ngách sâu kín những hy sinh thầm lặng, những phẩm chất tốt đẹp trong tâm hồn người nông dân như Nam Cao. Các tác phẩm điển hình ở đề tài này là “Chí Phèo”, “Lão Hạc”, “Một đám cưới”, “Một bữa no”...Quả thật trào lưu văn học hiện thực đã góp phần không nhỏ vào việc tái hiện lại một thời kì đen tối, lầm than trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Bên cạnh đó, bộ phận văn học phát triển bất hợp pháp hoặc nửa hợp pháp cũng chiếm một vị trí quang trọng trong nền văn học Việt Nam lúc bấy giờ. Bộ phận này bao gồm các sáng tác thể hiện trào lưu thứ ba, trào lưu văn học cách mạng. Trào lưu này gồm những tác phẩm thơ văn cách mạng bí mật, đặc biệt là mảng thơ ca trong tù. Đó chủ yếu là tác phẩm của những nhà văn- chiến sĩ, những người coi văn chương là vũ khí chiến đấu, dùng để tuyên truyền cách mạng. Những tác phẩm này không có nhiều điều kiện gọt giũa về hình thức nghệ thuật nhưng có nhiều đón góp về mặt tư tưởng. Bước đường phát triển của văn học cách mạng có thể chia thành ba chặng :
Thứ nhất là văn thơ Xô Viết Nghệ Tĩnh (XVNT) và thơ nhà tù 1931-1935, nó được coi là vũ khí sắc bén của cuộc đấu tranh cách mạng. Thơ văn XVNT đã lột trần những thủ đoạn áp bức bóc lột của bọn thực dân phong kiến , bọn tư bản, điạ chủ đồng thời vạch rõ nguồn gốc nỗi khổ cực cuả công nông, kêu gọi họ đứng lên đoàn kết chiến đấu dưới lá cờ chói lọi cuả Đảng vô sản, Từ đó tạo nên một khí thế chiến đấu mãnh liệt trong từng lời văn, câu thơ. Đặc biệt trong thơ văn XVNT, những tình cảm cách mạng đã được bộc lộ một cách sâu sắc và thấm thía: tình đồng chí mặn nồng, lòng ân nghĩa sâu sắc, niềm đau thương chuyển thành sức mạnh khơi động căm thù, cổ vũ đấu tranh. Các tác gia tiêu biểu trong thời kì này có Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh… Về nghệ thuật, các tác giả thơ văn thường dùng những hình thức của quần chúng, mang đậm tính dân tộc nhưng không kém phần hiện đại, với các thể thơ như lục bát, lục bát gián thất, vè, hát giặm, hát ví … để quần chúng dễ hiểu, dễ nhớ chủ trương, sách lược cách mạng. Tuy nhiên những tác phẩm thơ văn XVNT thiên về tư duy luận ý, yếu về tư duy hình tượng, vì sáng tác vội vàng để phục vụ kịp thời, nhiều bài, nhiều câu còn sượng, ngôn ngữ chưa thật chọn lọc, câu văn chưa được chau chuốt… nhưng đó là những lời tâm huyết cất lên từ máu lửa.
Thứ hai là văn thơ thời kỳ Mặt trận dân chủ. Thời kì này, hàng loạt báo chí hợp pháp cuả Đảng nối tiếp nhau ra đời : Lao động, Tập hợp, Tiến lên, Tiếng nói cuả chúng ta … Trên diễn đàn văn học công khai, văn học tiến bộ thế giới bắt đầu được giới thiệu, nhiều tác phẩm được dịch ra tiếng Việt. Được chú ý nhất là sự xuất hiện cuả hàng loạt cây bút trẻ - những thanh niên mới tham gia phong trào: Hồ Xanh, Trường Sơn, Hồng Chương, Tố Hữu… Những cây bút trẻ thời kì này thường có một tâm trang say sưa náo nức với lí tưởng vô sản, những tac phẩm của họ luôn biểu hiện sự thức tỉnh của tâm hồn : Từ ấy- Tố Hữu : đó là hồn thơ “ bừng nắng hạ” của một thanh niên được “mặt trời chân lý chói qua tim” trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam đang chìm đắm trong đau thương và tan tóc. Có đặt Từ ấy vào hoàn cảnh bấy giờ mới thấy hết giá trị của tập thơ, mới hiểu hết cái đẹp cao quý cuả một tâm hồn trong trẻo tuổi mười tám đôi mươi, say mê lí tưởng Đảng, rất mực yêu thương, dám tin tưởng, dám đấu tranh, dám xả thân cho sự nghiệp cách mạng. … Văn thơ chặng này tuy có mang được sức nóng và ánh sáng cuả ngọn lửa cách mạng nhưng cũng dễ nhận rõ mặt yếu của những con người mới đi vào văn học nghệ thuật và chưa dày dặn trong đấu tranh. Nhìn chung văn học cách mạng đã phát triển với một khí thế mới và một quy mô mới làm cho bộ mặt văn học dân tộc sáng hẳn lên.
Thứ ba là văn thơ thời kì Mặt trận Việt minh và thơ nhà tù 1930-1945. Ở chặng này, lần đầu tiên trong lịch sự lãnh đạo của Đảng ta , quan điểm Mac- Lênin về văn hoá và đường lối văn hoá Việt Nam được trình bày rõ ràng trên những nét lớn. Sự kiện ấy có ý nghĩa quan trọng không những đối với bước phát triển của văn thơ cách mạng thời kì này, mà cả đối với sự nghiệp xây dựng một nền văn hoá mới cuả Việt Nam. Văn thơ cách mạng đã từ chiến khu toả ánh sáng về đồng bằng, thành thị, góp phần thúc đẩy cuộc đấu tranh cuả dân tộc tiến tới. Ngay ở trong nhà tù, với tinh thần “ thân thể tại ngục trung, tinh thần tại ngục ngoại”, thơ nhà tù vẫn đâm chồi nảy lộc, làm rạng rỡ thi đàn dân tộc, góp phần vào sự nghiệp cách mạng. Trong văn học thời kì này, những cây bút quen thuộc như Hồng Chương, Sóng Hồng, Tố Hữu, Xuân Thuỷ… vẫn đóng góp nhiều tác phẩm cuả mình. Đáng chú ý hơn cả là những vần thơ của Bác Hồ kính yêu với tập “ Nhật kí trong tù”. Tập thơ ghi lại những sự việc Bác đã chứng kiến, quang cảnh Bác nhìn thấy ở những nơi bị giam hay bị giải đi qua: chuyện bị bắt ở Túc Vinh, chuyện người tù cờ bạc bị chết, cảnh trốn lính, vợ phải tù thay chồng… Toàn bộ những cảnh đã xảy ra trong “Nhật ký trong tù” là hình ảnh thu nhỏ của xã hội Trung Quốc thời bấy giờ. Những thối nát, bất công, tàn bạo của chế độ Tưởng Giới Thạch đè nặng lên cuộc sống của dân lành. Tập thơ cũng thể hiện tâm hồn cao đẹp của Bác. Nói tới tâm hồn trước hết nói tới tình yêu thương con người của Bác, Bác ái ngại cho cảnh người vợ đến thăm chồng trong ngục, thương người bạn tù chỉ có cái chăn bằng giấy bồi, đêm thu trằn trọc ngủ không yên, Bác thương người tù cờ bạc nghèo không có gì ăn. Thương cả những người lao động dầm mưa, dãi gió mà công lao chẳng được bao nhiêu. Thương tâm nhất vẫn là những em bé, Bác thương mọi số phận, tha thiết với mọi biểu hiện của sự sống dù là bé nhỏ nhất .
Vâng " Vần thơ của Bác vần thơ thép
Mà vẫn mênh mông bát ngát tình..."
...
Tất cả đã đánh dấu một bước trưởng thành mới của trào lưu văn học cách mạng 1930-1945.
Trong mười lăm năm cuối cùng cuả chủ nghĩa thực dân Pháp trên đất nước ta, văn thơ cách mạng là dòng văn học duy nhất ngày càng phát triển rực rỡ. Dòng văn học lãng mạn nhởn nhơ bên lề cuộc đấu tranh đã dần suy tàn, dòng văn học hiện thực tuy nở rộ một thời nhưng rồi cũng luị dần. Hiện tượng đó làm sáng tỏ chân lý : con đường cách mạng là con đường phát triển của văn học chân chính; ngoài ra không có con đường nào khác.