III - Thơ Đường Luật
A - Sơ Lược
Thơ Đường luật là một thể loại thơ khá phổ biến, có nhiều loại, xuất hiện từ đời nhà Đường bên Trung Quốc (618 - 907 sau Công Nguyên). Tuy nhiên, phổ biến nhất là các thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, bát cú; ngũ ngôn tứ tuyệt, bát cú, bên cạnh đó còn các loại tràng thiên, nhưng ở đây ta chỉ xét tới 4 thể thơ trên.
Như tên gọi của nó, thất ngôn bát cú là cả bài thơ gồm có 8 câu, mỗi câu 7 chữ. Trong 4 thể thơ trên thì thể thất ngôn bát cú được ưa chuộng hơn cả. Và luật thơ cũng tựa như nhau nên ta chỉ xét thể thất ngôn bát cú làm chuẩn mực.
B - Bố cục
Trong bài thơ Thất ngôn bát cú Đường luật được chia ra làm 4 phần. Mỗi phần là hai câu liền nhau.
Đề: hai câu đầu: nêu vấn đề.
Thực: hai câu 3 và 4: giải thích rõ hơn về vấn đề
Luận: hai câu 5 và 6: bàn luận về vấn đề
kết: hai câu cuối cùng: bàn luận hay là cảm nghĩ của tác giả về vấn đề.
C - Luật phối thanh thơ Thất ngôn bát cú Đường luật
Luật phối thanh trong thơ thất ngôn bát cú Đường luật cũng theo quy tắc "Nhất - tam - ngũ bất luận, nhị - tứ - lục phân minh. Thông thường thì thơ sử dụng vần bằng là chủ yếu, rất hiếm khi sử dụng vần trắc. Nên có hai cách phối thanh chủ yếu cho vần bằng ở thơ thất ngôn bát cú Đường luật như sau:
Luật bằng, vần bằng
(câu 1
B B T T T B B
(câu 2
T T B B T T B
(câu 3
T T B B B T T
(câu 4
B B T T T B B
(câu 5
B B T T B B T
(câu 6
T T B B T T B
(câu 7
T T B B B T T
(câu 8
B B T T T B B
Ví dụ:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không
(Thương vợ - Trần Tế Xương)
Luật trắc, vần bằng:
(câu 1
T T B B T T B
(câu 2
B B T T T B B
(câu 3
B B T T B B T
(câu 4
T T B B T T B
(câu 5
T T B B B T T
(câu 6
B B T T T B B
(câu 7
B B T T B B T
(câu 8
T T B B T T B
Ví dụ:
Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
Một bàn cờ thế phút sa tay
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ bầy chim dáo dác bay
Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây
Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng
Nỡ để dân đen mắc nạn này?
(Chạy giặc - Nguyễn Đình Chiểu)
Tuy nhiên ở câu thứ nhất của bài luật trắc có thể thay thế thanh trắc ở chữ thứ hai thành thanh bằng.
Ví dụ:
Một đèo, một đèo lại một đèo
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo
Cửa sơn đỏ loét tùm hum nóc...
(Đèo Ba Dội - Hồ Xuân Hương)
Khổ độc: (Khổ: khó, độc: đọc) Khó có thể làm theo luật phối thanh như biểu trên, cho nên câu thơ có thể tuân theo luật "bất luận" nghĩa là "nhất - tam - ngũ bất luận", tuy nhiên, có những tiếng đáng trắc mà đổi ra bằng thì được, nhưng có những tiếng đáng bằng mà đổi ra trắc thì trở thành khổ độc không được. Đó là những tiếng nằm ở vị trí thứ ba của các câu lẽ và thứ năm của các câu chẵn.
Niêm: Niêm nghĩa là sự kết dính lẫn nhau. Nghĩa là sự liên lạc về thanh của chữ thứ hai của các câu trong một bài thơ. Hai câu niêm với nhau thì phải có cùng thanh với nhau ở chữ thứ hai. Các câu niêm với nhau trong một bài thất ngôn bát cú Đường luật là: câu 1 niêm với câu 8 (1~8), 2~3, 4~5, 6~7, 8~1. (xem lại biếu phối thanh ở trên). Nếu như thất niêm (không đúng luật) thì bài thơ có thể trở nên lủng củng nên không đuợc.
Phép đối: Trong thơ thất ngôn hay ngũ ngôn bát cú Đường luật thì bốn câu giữa (câu 3,4,5,6) phải là những cặp câu đối với nhau. Để hiểu rõ hơn về phép đối xin đọc lại bài ở trên. Câu 3 và câu 4 đối nhau, câu 5 và câu 6 đối nhau. Một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật hay dở là ở chỗ bốn câu này.
Có thể tham khảo lại các câu đối nhau ở hai ví dụ trên: Thương vợ, và Chạy giặc.
D - Gieo vần
Ở đây ta chỉ xét vần bằng. Vần bằng là những từ mang thanh bằng vần với nhau. Trong thơ Đường luật thường sử dụng lối "Độc vận" (1 vần). Từ đầu đến cuối bài thơ chỉ duy nhất một vần mà thôi. Và các từ vần với nhau đó được đặt ở cuối các câu 1-2-4-6-8. Các tiếng còn lại ở các chữ cuối câu lẽ (3-5-7) phải mang thanh trắc. Nếu thơ vần trắc thì ngược lại.
Ví dụ:
Xóc phong suy hải khí lăng lăng
Khinh khởi ngâm phàm quá Bạch Đằng
Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc
Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng
Quan hà bách nhị do thiên thiết
Hào kiệt công danh thử địa tằng
Vãn sự hồi đầu ta dĩ hĩ
Lâm lưu phủ cảnh ý nan thăng
(Bạch Đằng hải khẩu - Nguyễn Trãi)